Personal Information
Danh Tánh
|
0-TS Hoằng Trí Chánh Giác
|
|
Gender | ♂️ Male |
Hành Trạng
Additional Info
1. Thiền sư Chánh Giác ở Thiên đồng. Thiền sư Chánh Giác - Hoằng Trí ở Thiên đồng tại Minh châu, vốn người dòng họ Lý ở Thấp châu. Thân mẫu Sư mộng thấy có vị Tăng ở Ngũ đài cởi vòng chuỗi mà đeo cho vào cánh tay phải của mình, mới mang thai Sư và khiết trì trai giới. Ðến lúc sinh Sư, bên cánh tay phải có tướng trạng đặc biệt như vòng chuỗi. Năm bảy tuổi, mỗi ngày Sư đọc thông rành cả vài ngàn lời. Tổ phụ và thân phụ Sư sùng đạo từ lâu từng dự tham nơi Thiền sư Tốn - Phật Ðà. Thiền sư Tốn từng chỉ Sư mà nói với thân phụ Sư rằng: “Ðứa trẻ này đạo vận ưu thắng, rất chẳng phải người trong trần tục. Nếu xuất gia hẳn sẽ là pháp khí”. Năm mười một tuổi, Sư được độ, đến ở Bản tông - Tịnh minh. Năm mười bốn tuổi, Sư thọ giới Cụ túc. Năm mười tám tuổi, Sư du phương tham học. Sư khẳng khái phán quyết cùng tổ phụ là: “Nếu chẳng tỏ rõ đại sự, thề chẳng trở về”. Kịp đến lúc Sư đến Hương sơn ở Nhữ châu, thành cây khô, người trông thấy rất mực kính trọng. Một ngày nọ nghe vị Tăng tụng kinh Diệu Pháp Liên Hoa đến “mắt của cha mẹ sinh ra hẳn thấy ba ngàn cõi”. Bỗng nhiên Sư có sự tỉnh ngộ, liền đến nơi trượng thất tỏ bày sở ngộ. Hương Sơn chỉ ẩn hương trên đài mà bảo: “Mặt trong là vật gì?” Sư nói: “Là tâm hạnh gì?” Hương Sơn hỏi: “Nơi ông ngộ lại làm sao sống?” Sư đưa tay họa vẽ một tướng vòng tròn mà trình bày đó, lại kéo rút lui sau. Hương Sơn bảo: “Gã tài quậy bùn nhóm tụ có hạng gì?” Sư nói: “Sai nhầm”. Hương Sơn bảo: “Riêng phải thấy người mới được”. Sư liền ứng tiếng đáp: “Kính vâng”. Và Sư liền đến nơi Thiền sư Thuần ở Ðan hà. Thiền sư Thuần hỏi: “Thế nào tự chính mình ở không kiếp trở về trước?” Sư đáp: “Ðáy giếng Ểnh ương nuốt vầng nguyệt, canh ba chẳng mượn rèm sáng đêm”. Lại bảo: “Chưa ở lại nói”. Sư phỏng bàn nghị, Thiền sư Thuần bèn đánh một cây phất tử và bảo: “Lại nói chẳng mượn”. Ngay lời nói ấy Sư được mở toan, bèn đảnh lễ. Thiền sư Thuần lại bảo: “Sao chẳng nói lấy một câu?” Sư nói: “Ngày nay tôi mất tiền lại gặp tội”. Lại bảo: “Chưa rảnh đánh được, người tạm đi”. Thiền sư Thuần ra nhận lãnh Ðại hồng, Sư nắm giữ mốc ghi. Sau lại được bảo làm thủ chúng. Ðắc pháp đã có được vài người. Bốn năm sau, Sư đến Viên thông. Bấy giờ Thiền sư Chân Hiết mới đến ở Trường lô, sai vị Tăng thỉnh mời Sư đến, đại chúng ra nghinh đón. Thấy Sư vận mặc y phục rách xấu mới lấy làm lạ đó. Thiền sư Chân Hiết bảo thị giả đổi giày mới cho Sư, Sư liền bảo: “Tôi vì giày mà đến đây ư?” Ðại chúng nghe thế, tâm sinh kính phục, khẩn cầu Sư giảng pháp. Sư ở tòa thứ nhất suốt sáu năm. Ðến lúc ra hoằng hóa, Sư đến ở Phổ chiếu tại Tứ châu. Tiếp lại bổ nhậm ở Viên thông - Năng nhân tại Thái bình. Và ở Thiên đồng tại Trường lô nhà cửa phòng ốc chật hẹp, Sư bèn đến mở mang làm mới tất cả. Ðại chúng cùng nhau nhóm tụ. Có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Cửa vàng rèm rủ ai truyền tin thư nhà, màn tía trướng rủ mờ tối tung chân chân. Chánh lúc nào thấy nghe có nơi chẳng đến, nói bày có chỗ chẳng kịp. Thế nào thông được cái tin tức đi. Mộng hồi đêm sắc nương hiếm hiểu, cười chỉ gia phong cháy rực xuân”. Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Tâm chẳng thể duyên, miệng chẳng thể bàn, ngay như lùi bước mang vác, rất kỵ đương đầu phạm húy. Gió trăng trong lạnh xưa qua đầu, thuyền đêm đánh chuyển đất lưu ly”. Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Ở kiếp không có Chân tông, trước tiếng hỏi tự thân, lột trần mới kế sống, trong trắng gia phong xưa, đích thực ngoài ba thừa, xa xa trong một ấn, tức lại hành khác loại, muôn phái tự rạng đông”. Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Nay chính là ngày giáng đản của Ðức Thích-ca và Lão Tử. Trường lô đấy chẳng giải nói thiền, cùng các người họa vẽ cái dạng con. Chỉ như lức tại trong bào thai Ma-gia làm sao sống?” Sư nắm cây phất trần họa vẽ tướng một chấm trong vòng tròn rồi bảo: “Chỉ như dùng nước tịnh tắm gội thân vàng ròng, lúc ấy lại làm sao sống?” Sư lại họa vẽ tướng nước trong vòng tròn (??) rồi bảo: “Chỉ như đi khắp các hướng bảy bước, mắt nhìn về bốn phương, một tay chỉ trời, một tay chỉ đất, rồi thành đạo, giảng pháp, thần thông biến hóa, trí tuệ biện tài, trong suốt bốn mươi chín năm gồm hơn ba trăm hội, nói xanh nói vàng chỉ đông họa tây, đến lúc nhập Niết-bàn lại làm sao sống?” Sư lại họa vẽ hình chữ thập trong vòng tròn sắc rồi bảo: “Nếu là nạp Tăng có đủ mắt sáng, hẳn cũng làm hẹn, còn chưa như vậy thì mỗi mỗi phải trải qua mới được”. Lại có lúc lên giảng đường, có vị Tăng hỏi: “Thế nào là người hướng đi?” Sư đáp: “Mây trắng vào hang hết, núi xanh dựa trời cao”. Lại hỏi: “Thế nào tức người lại?” Sư đáp: “Ðầy đầu tóc bạc lìa hang cốc, nửa đếm xuyên mây vào phố chợ”. Lại hỏi: “Thế nào là người chẳng đi chẳng lại?” Sư đáp: “Thạch nữ kêu hồi ba cõi mộng. Người gỗ ngồi chốt sáu cửa”. Và Sư mới bảo: “Trong câu rõ tông thì dễ, trong tông biện đích là khó”. Ngưng giây lát, Sư lại bảo: “Có hiểu chăng? Gà lạnh chưa báo nhà rừng sáng, ẩn ẩn người đi qua núi tuyết”. Có vị Tăng hỏi: “Lúc một sợi tơ chẳng nhằm thì thế nào?” Sư đáp: “Khoái dao khoái búa chẻ chẳng vào”. Lại hỏi: “Lúc mở đầu đãy vải thì thế nào?” Sư đáp: “Mặc tình lấp ngòi bít hang”. Lại hỏi: “Lý hư rốt cùng lúc không thân thì thế nào?” Sư đáp: “Văn vẻ mới đầu chưa thành sẹo, tin tức khó truyền khắp”. Lại hỏi: “Một bước kín dời đường huyền chuyển, thông thân buông xúong cướp hồ không”. Sư bảo: “Lúc Ðản sinh đến cha, hợp lễ không để chiếu”. Lại hỏi: “Lý tức như vậy, sự làm sao sống?” Sư đáp: “Rành rành mới xoay việc phân hóa, mười phương cơ ứng lại ngại gì?” Lại hỏi: “Thế nào là trần trần đều hiện thân xưa nay?” Sư đáp: “Thấu hết thảy sắc vượt hết thảy tâm”. Lại hỏi: “Như lý như sự làm sao sống?” Sư đáp: “Ði đường gặp rắn chết chớ đánh giết, xách con không đáy đầy đem về”. Lại nói: “Vào chợ hay huýt dài, về nhà mặc áo sam cụt”. Sư bảo: “Trên non người gỗ ca, bên khe Thạch nữ vũ”. Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Chư vị Thiền đức! Người nuốt hết chư Phật ba đời, vì sao mở miệng không được? Người chiếu phá cả bốn thiên hạ, vì sao nhằm mắt không được? Có rất nhiều bệnh đau hẹn cùng độm lúc rút bỏ đi. Hãy làm sao sống được mười thành thông sảng khoái? Có hiểu chăng? Ngón tay cái mở hoa nhạc liền sắc trời, buông ra tiếng Hoàng hà đến biển”. Từ lúc Sư đến trú trì trở lại nhận thọ không tham mà cúng thí không chán. Gặp năm khó khổ thức ăn hết cả, chính tự mình có và trông nhìn đến đại chúng mọi sự dư thừa, có thể nương nhờ làm kế sống cả vài muôn. Mỗi ngày quá ngọ, Sư hẳn không ăn. Ðến tháng chín năm Ðinh sửu (1157) thuộc niên hiệu Thiệu Hưng (1131-1163) thời Nam Tống, Sư đi thăm viếng các vị quận liêu và đànviệt, tiếp đến thăm viếng Việt soái Triệu Công Lệnh ngận và cùng đó nói lời giã biệt. Ðến ngày mồng 07 tháng 10, Sư trở về lại núi. Hôm sau vào khoảng giờ thìn giờ tỵ, Sư tắm gội thay y phục xong, ngồi kiết-già bảo gọi đại chúng, đòi thị giả lấy bút mực viết thư gởi Thiền sư Ðại Tuệ ở Dục vương, thỉnh mời chủ trì việc hậu sự. Và Sư bèn viết kệ rằng: “Hoa đốm huyễn mộng Sáu mươi bảy (67) năm Chim trắng khói tan Nước thu liền trời”. Xong, Sư bèn ném bút, thị tịch. Nhập pháp lưu lại bảy ngày mà dung mạo nhan sắc Sư vẫn như lúc sinh tiền, nghinh thỉnh toàn thân an táng dựng tháp tại Ðông cốc. Truy phong Sư thụy hiệu là “Hoằng Trí”, tháp hiệu là “Diệu Quang”. |
Contact Information
Phone
|
Array |
Address | Array |