Personal Information
Danh Tánh
|
0-TS Kính Sơn Hạnh Ðoan
|
|
Gender | ♂️ Male |
Hành Trạng
Additional Info
1. Thiền sư Hạnh Ðoan ở Kính sơn. Thiền sư Hạnh Ðoan - Nguyên Sưu ở Kính sơn tại Hàng châu, vốn người dòng họ Hà ở Lâm hải. Gia đình nhiều đời nối nghiệp Nho giáo. Sư vừa mới sinh đã tỏ vẻ thông minh tú phát, từ bé thơ đã không ăn dùng các thứ tanh nồng. Năm mười hai tuổi, Sư theo người chú trong họ là Sa-môn Mậu cầu xin xuất gia, bèn được độ ở viện Hóa thành tại Dư hàng. Năm mười tám tuổi, Sư thọ giới Cụ túc. Tất cả mọi thứ văn tự chẳng do thầy chỉ dạy mà tự nhiên Sư có khả năng thông rành. Mới đầu đến dự tham nơi Hòa thượng Tạng Sưu ở Kính sơn. Hòa thượng Tạng Sưu - Thiện Trân hỏi: “Ông là người xứ nào?” Sư đáp: “Người xứ Ðài châu”. Hòa thượng Thiện Trân hét một tiếng, Sư trải toạ cụ ra. Lại hét một tiếng, Sư gấp toạ cụ lại, Hòa thượng Thiện Trân bảo: “Tha cho ông ba mươi gậy, tham đường đi”. Ngay lời nói ấy bỗng nhiên Sư chóng ngộ, Thiền sư Thiện Trân liền mời Sư vào hầu ty. Ðến lúc Thiền sư Thiện Trân thị tịch, Sư đến tịnh từ nương tựa Củng Công - Thạch Lâm, liền bảo Sư làm ký thất. Sau đó Sư cho Linh ẩn là nơi non nước tú ưu thắng, bèn đến treo tích trượng tại đó. Sư từng tự xưng là “Hàn Thập” có Củng Công - Hoành Xuyên, người ở trong làng quê đang ở tại Dục vương, viết kệ tụng thỉnh mời Sư là: “Xa xa khoản đất trời, Riêng có Hàn sơn tử”. Sư trọn chẳng qua sông, mà đến bái yết Chân Công - Giác Am đang ở Thừa thiên, lại đến tham yết Khâm Công - Tuyết Nham tại Ngưỡng sơn, Khâm Công hỏi: “Ông từ xứ nào lại?” Sư đáp: “Hợp lấy ngưỡng miệng”. Khâm Công bảo: “Cầu lại kính cao, núi tập vân vút, chưa biết thư ký ở tại đâu?” Sư vỗ tay đáp: “Vịt nuốt con ốc trồng mắt chợt lồi ra”. Khâm Công cười xoay lại bảo Thị giả: “Khéo rót trà mang lại”. Sư nói: “Cũng chẳng tiêu đựơc”. Sư ở đó ba năm thì Khâm Công thị tịch. Sư mới trở về ở Chế hữu, Kính sơn thỉnh mời Sư đến ở Ðệ nhất tòa. Ðến năm Canh tý (1300) thuộc niên hiệu Ðại Ðức (1297 - 1308) thời nhà Nguyên, ra đời hoằng hóa Sư đến ở Tư phước tại Hồ châu, học chúng đua nhau kéo đến, tiếng tăm vang vọng đến tận kinh đô. Nhà vua đặc biệt ban sắc tặng Sư hiệu là “Tuệ Văn Chánh Biện Thiền sư “. Trung - thư - bình - chương - sự - Trương Lư Công đang nhậm giữ Hành tuyên chánh xứ, mới đầu đề cử thỉnh mời Sư đến làm chủ Trung thiên trúc. Ngày khai đường giảng pháp, các hàng công suất liêu thuộc đều đến dự tham dưới tòa. Ðến năm Nhâm tý (1312) thuộc niên hiệu Hoằng Khánh (1312 -1314) thời nhà Nguyên, Sư chuyển dời đến ở Linh ẩn. Lại có sắc chỉ thiết lập đại hội Thủy lục tại Kim sơn. Thỉnh mời Sư lên tòa giảng pháp, xong việc Sư lại vào thăm hầu, vua lại ban tăng Sư hiệu là “Phật Nhật Phổ Chiếu”. Sư giã từ theo hướng Nam trở về dưỡng cao tại am ở phía tây Lương chữ, đến năm Nhâm tuất (1322) thuộc niên hiệu Chí Trị (1321 - 1324) thời nhà Nguyên, tại Kính sơn pháp tịch trống vắng, Tuyên chánh hàng viện thỉnh mời bổ nhậm Sư đến ở đó. Sư đến nói là có ba lần ban tặng pháp y ca-sa kim lan. Suốt hai mươi năm, chân Sư chẳng bước ra khỏi ngạch cửa, mà các hàng kính mộ đạo phong của Sư nhóm tụ đến không nơi dung chứa. Có vị Tăng hỏi: “Thế nào là chánh pháp nhãn tạng?” Sư đáp: “Ðầu ngả tư đường, đá dám cản chận”. Lại hỏi: “Chẳng chỉ dừng ấy bèn là phải?” Sư đáp: “Vầng nguyệt tợ cung cong, ít mưa nhiều gió”. Có lúc lên giảng đường, nêu cử: “Có vị Tăng hỏi Triệu Châu: “Con chó có Phật tánh không ?” Triệu Châu đáp: “Không”. Lại có vị Tăng khác hỏi: “Con chó có Phật tánh hay không?” Triệu Châu đáp: “Có”. Xong, Sư bảo: “Nếu lấy “Không” làm rốt ráo, sau lại nhân gì nói là “Có”? Nếu lấy “Có” làm đích xác, trước mặt nhân gì mà nói “Không”? Ở trong đây bắt giặc Triệu Châu, hứa cho các người trên trời dưới trời”. Lại có lúc lên giảng đường Sư bảo: “Gió thu mát, đêm thu dài, khách chưa về, nghĩ nhớ quê hương”. Sư vỗ xuống thiền sàn một cái tiếp bảo: “Tự là chẳng về, về bèn được, cảnh khói Ngũ hồ có ai tranh”. Sư từng khám xét hỏi vị Tăng mới đến: “Thánh giả ở phương nào, Linh kỳ ở xứ nào?” Vị Tăng ấy đáp: “Lâm trẫm châm”. Sư bảo: “Dứt chọn thiền hòa như vừng tợ thóc, tham đường đi”. Sư lại khám một vị Tăng khác: “Bàn thờ đá chẻ phá cửa ngực ông, bồn chén ao ngâm nát bảng chân ông”. Vị Tăng ấy định mở miệng đáp. Sư liền quát hét. Sư lại khám xét một vị Tăng khác: “Ðánh mở hoa nhạc liền trời xinh, phóng ra Hoàng hà suốt đáy trong, tức tạm để đó, còn trên thật địa nói đem lại một câu xem?” Vị Tăng ấy định mở miệng đáp, Sư bèn đánh, Sư dùng mắng chửi quát hét vì môn nhân đệ tử mà tha thiết dạy răn, vì chẳng gần tình người thực hành đạo đại công trong thiên hạ. Việc lợi tha của Sư đều ngầm mà làm đó, không rằng chẳng nói. Sư sinh năm Ất mão (1255) thuộc niên hiệu Bảo Hựu thời Nam Tống (1255 - 1259), đến ngày mồng 04 tháng 08 năm Tân Tỵ (1341) thuộc niên hiệu Chí Chánh (1341 -1368) thời nhà Nguyên, Sư viết kệ tụng giã biệt đại chúng rằng: “Vốn không sinh diệt, Sao có đến đi. Sông băng phát lửa, Cây sắt nở hoa”. Xong, Sư buông bút, duỗi một chân mà thị tịch, hưởng thọ tám mươi tám tuổi, bảy mươi sáu hạ lạp. Ðến ngày 11 tháng đó, nghinh đưa toàn thân Sư an táng tại viện Tháp tịch chiếu. Sư có các đệ tử như Trúc Tuyền, Lâm Cổ, Ðảnh Minh, Mộng Ðường, Ngạc Sở, Thạch Kỳ, Dùng Trung Cập v.v… đều đủ để làm cao lớn Tông ấy. |
Contact Information
Phone
|
Array |
Address | Array |