Tổ Thứ 14 – Bồ Tát Long Thọ

Personal Information

Danh Tánh
Tổ Thứ 14 - Bồ Tát Long Thọ
Gender ♂️ Male

Hành Trạng

Additional Info

(s: Nāgārjuna, 龍 樹, j: Ryūju): tiếng Phạn Nāgārjuna âm dịch là Na Già At Thích Tho Na (那伽閼刺樹那), Na Già Cát Tho Na (那伽曷樹那), Na Già A Thuân Na (那伽阿順那), Tây Tạng: Klu-sgrub. ; ý dịch là Long Mãnh (龍猛), Long Thăng (龍勝). Tổ truyền pháp thứ mười bốn của Thiền Tông Ấn Độ.
Nagarjuna dịch nghĩa dịch nghĩa sang chữ Hán là Long Thọ. Thọ là cây, chỉ cây arjuna, nơi sinh ra Luận sư. Mẹ Luận sư hạ sinh ra ngài dưới gốc cây arjuna nên lấy tên cây đặt tên cho con. Theo một truyền thuyết khác, khi lớn lên, Luận sư được Long Vương (vua loài rồng) đưa xuống long cung dưới biển, truyền cho phép tu Mật giáo.
Theo đại sư Cưu Ma La Thập, thì ngài sinh ra trong một gia đình Bà La Môn tại miền nam Ấn Độ, nhưng theo đại sư Huyền Trang thì ngài sanh ra ở miền nam Kiều Tất La, nay là Berar. Ngài sống vào khoảng năm 150-250 sau Công Nguyên, vị tổ khai sáng Phái Trung Quán, ngoài ra ngài còn được tôn kính như là vị tổ của Bát Tông.
Hồi còn nhỏ ngài đã nổi tiếng là người học giỏi, tinh thông giáo học Bà La Môn. Học thông bốn kinh Phệ Đà, cả thiên văn, địa lí, thuật số. Ngài luyện được thuật tàng hình. Một ngày nọ, ngài cùng với ba người bạn thân (cũng biết thuật tàng hình) lẻn vào cung vua, xâm phạm các cung nữ. Việc bị bại lộ, ba người bạn bị xử chém, riêng ngài thoát thân được. Nhân sự việc này mà ngài tỉnh ngộ, thấy rõ tâm ái dục là gốc của tội lỗi, bèn vào núi, được gặp tháp Phật, rồi xuất gia thọ giới.
Ngài xuất gia và trở thành một Tỳ kheo của trường phái Hữu Bộ, học giáo lý của Phật Giáo Tiểu Thừa, thông suốt cả Tam Tạng thánh điển trong ba tháng nhưng không thấy thỏa mãn. Ngài đi du lịch các nơi để tìm kinh điển mới lạ khác, và thọ nhận kinh điển Đại Thừa từ một vị Tỷ Kheo già trong núi Tuyết Sơn (雪山, Himalaya, Hy Mã Lạp Sơn)
Theo truyền thuyết, một lần cùng ngoại đạo tranh luận, ngài đánh đổ được học thuyết của họ; nhân đó mà sinh tâm kiêu mạn, muốn tự sáng lập giáo phái riêng để độ chúng. Có vị Đại Long Bồ Tát, thấy thế thì thương xót, bèn dắt ngài xuống Long cung, cho xem các kinh điển đại thừa. Theo một truyền thuyết khác thì Ngài đã tìm thấy kinh Hoa Nghiêm trong một tu viện bỏ hoang. Nhờ đó mà ngài thông đạt giáo pháp đại thừa, trước tác nhiều kinh luận đại thừa được người đời xưng tụng là “Thiên Bộ Luận Chủ”; lại được nhiều tông phái cùng tôn xưng là sáng tổ. Trong luận Tì Bà Sa và luận Đại Trí Độ, ngài có tán dương đức Phật A Di Đà và cõi Tịnh Độ, cùng khai thị cho mọi người thấy rõ sự công hiệu của pháp môn tu “niệm Phật tam muội”.
Ban đầu ngài đắc pháp nơi Tôn giả Ca Tỳ Ma La, sau đó đến miền Nam Ấn độ. Người vùng nầy rất tin phước nghiệp, nghe ngài thuyết cho diệu pháp, họ truyền bảo với nhau: “Người có phước nghiệp là đứng hạng nhất trên đời, nói suông tin Phật ai thấy được gì đâu?”.
Tôn giả nói:
- Các ngươi muốn thấy Phật tánh trước hết hãy bỏ tâm ngã mạn đi.
Họ hỏi:
- Phật tánh lớn hay nhỏ?
Tôn giả đáp:
- Chẳng lớn chẳng nhỏ, chẳng rộng chẳng hẹp, không phước không báo, chẳng tử chẳng sanh.
Họ nghe qua lý tột đều chuyển tâm ban đầu. Ngài ở trên pháp tòa lại biểu hiện thân tự tại như vầng trăng đầy, tất cả chúng chỉ nghe pháp âm mà chẳng thấy tướng (thân) của ngài.
Trong chúng đó có con nhà trưởng giả tên Ca Na Đề Bà (Thánh Thiên), bảo với chúng:
- Biết tướng đó không?
Chúng đáp:
- Mắt chưa từng thấy cái đó, làm sao nhận biết được?
Đề Bà nói:
- Đó là Tôn giả biểu hiện thể tướng Phật tánh để chỉ dạy chúng ta. Lấy gì để biết nó? Lấy vô tướng tam muội biểu hiện giống như trăng tròn đầy để biết nghĩa Phật tánh rỗng không mà sáng suốt.
Nói xong tướng vành trăng liền ẩn mất, lại thấy ngài vẫn ngồi tòa cũ và nói kệ:
Thân hiện viên nguyệt tướng
Dĩ biểu chư Phật thể
Thuyết pháp vô kỳ hình
Dụng biện phi thanh sắc.
Dịch:
Thân hiện tướng trăng tròn
Để trình thể chư Phật.
Nói pháp không thân hình
Để rõ chẳng thanh sắc
Chúng đó nghe kệ đốn ngộ vô sanh, đều nguyện xuất gia để cầu giải thốt. Ngài liền cho xuống tóc, lệnh chư thánh truyền giới cụ túc.
Trước kia nước đó có ngoại đạo trên 5000 người, làm đại huyễn thuật dân chúng đều quy ngưỡng theo. Nhờ ngài giáo hóa khiến họ đều quy y tam bảo.
Phần lớn cuộc đời ngài ngài sống ở miền Nam Ấn, rồi biến miền nầy thành một trung tâm quảng bá đạo Phật. Ngài là một trong những nhà triết học chính của Phật giáo, ngài đã viết khá nhiều sách chú thích về giáo lý kinh điển Đại Thừa, hình thành hệ thống giáo học Đại Thừa và tuyên dương tư tưởng Đại Thừa. Ngài là một nhà biện chứng vĩ đại chưa từng thấy.
Một trong những thành tựu chính của ngài là hệ thống hóa giáo thuyết trong Kinh Bát Nhã Ba La Mật. Phương pháp lý luận để đạt đến cứu cánh của ngài là căn bản “Trung Đạo,” bác bỏ nhị biên. Ngài được coi là tác giả của các tác phẩm Nhật ký thơ về Trung Đạo, Hai Mươi ca khúc Đại Thừa, bàn về Thập Nhị Môn (Mười Hai Cửa). Chính ngài là người đặt cơ sở của phái Trung Đạo bằng Tám Phủ định (không thủ tiêu, không sáng tạo, không hủy diệt, không vĩnh hằng, không thống nhất, không đa dạng, không đến, không đi). Trường phái Không Luận (S. Sunyavada) cũng gọi là trường phái Trung Luận (S. Madhyamaka) này tồn tại ở Ấn Độ suốt 800 năm và cùng với đạo Phật bị tiêu diệt ở Ấn Độ vào khoảng năm 1.000 TL. Cùng với Du Già Phái (瑜 伽 派), đây là hai học phái lớn của Phật Giáo Đại Thừa.
Các bộ kinh Đại Thừa làm chỗ dựa cho Long Thọ lập ra thuyết Trung Luận là các bộ Kinh Bát Nhã (S. Prajna) được phát hiện vào khoảng thế kỷ II trước công nguyên). Bát Nhã là trí tuệ siêu việt. Các bộ kinh Bát Nhã giảng về trí tuệ siêu việt vốn có sẵn trong tất cả chúng sinh, và là cái mầm giác ngộ có sẵn, dựa vào nó chúng sinh tu hành để tương lai thành Phật. Một chủ đề khác của các bộ Kinh Bát Nhã là lý Không (Sunyata). Theo Long Thọ, sunyata, lý không có hai nghĩa: Bản thể luận và giải thoát luận. Về Bản thể luận, tất cả mọi sự vật và hiện tượng đều do nhân duyên (điều kiện) hòa hợp mà thành, vốn không có thực thể (vô ngã) tức là không. Không ở đây là không có thực thể, chứ không phải là không có gì hết. Về Giải thoát luận, vì tất cả mọi sự vật và hiện tượng đều không có thực thể cho nên biến thiên, thay đổi vô thường, không xứng đáng cho con người đeo đuổi, tham đắm. Nhờ không đeo đuổi tham đắm cho nên con người được giải thoát. Long Thọ là tác giả nhiều bộ Luận Đại Thừa quan trọng, trong đó có hai bộ Trung Quán Luận và Thập Nhị Môn Luận nổi tiếng nhất ở Trung Hoa. Chính hai bộ luận này cùng với bộ “Bách Luận” của Aryadeva, học trò của Long Thọ, là chỗ dựa của học phái Phật giáo “Tam Luận Tông” của Trung Quốc.
Ngoài Trung Luận ra, còn có một số trước tác khác như Không Thất Thập Luận (s: Śūnyatā- saptati, 空七十論), Quảng Phá Luận (s: Vaidalya-sūtra hay Vaidalya-prakaraṇa, 廣 破 論), Lục Thập Tụng Như Lý Luận (s: Yuktiṣaṣikā, 六 十 頌 如 理 論), Hồi Tránh Luận (s: Vigraha-vyāvartanī, 廻 諍 論), Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận (s: Daśabhūmika- vibhāṣā-śāstra, 十 住 毘 婆 沙 論), Đại Thừa Nhị Thập Tụng Luận (s: Mahāyāna- viṃśikā, 大乘二十頌論), Bảo Hành Vương Chánh Luận (s: Ratnāvalī, 寳行王正論), Long Thọ Bồ Tát Khuyến Giới Vương Luận (s: Suhṛllekha, 龍樹菩薩勸誡王論), Bồ Đề Tư Lương Luận Tụng (菩提資糧論頌), v.v. Ngoài ra tương truyền rằng Đại Trí Độ Luận (s: Mahāprajñāpāramitā-śāstra, 大 智 度 論), Thập Nhị Môn Luận (s: Dvādaśa-dvāra-śāstra, 十二門論) .
Đối với ngài luật nhân duyên rất quan trọng vì đó là thực chất của thế giới phi hiện thực và hư không; ngoài nhân duyên ra, không có sinh ra, biến mất, vĩnh hằng hay thay đổi. Sự tồn tại của cái nầy là giả định vì phải có sự tồn tại của cái kia. Ngài Long Thọ được các phái Đại Thừa Phật Giáo tôn kính như một vị Bồ Tát. Chẳng những Thiền Tông, mà ngay cả Tịnh Độ tông cũng xem Ngài Long Thọ như tổ của chính họ. Long Thọ đã tạo ra một kỷ nguyên trong lịch sử triết học Phật giáo và khiến cho lịch sử nầy có một khúc quanh quyết định. Huyền Trang đã nói về bốn mặt trời rọi sáng thế giới. Một trong số đó là Long Thọ; còn ba mặt trời kia là Mã Minh, Cưu Ma La Thập, và Thánh Thiên. Thật vậy, Long Thọ là một nhà triết học không có đối thủ trong lịch sử triết học Ấn Độ.
Ngài là tổ thứ 14 của dòng Thiền Ấn Độ, là sơ tổ của phái Trung Quán hay Tam Luận và Tịnh Độ tông. Mặc dù một số tông phái tin rằng ngài đã trước tác một số lớn các tác phẩm, nhưng các học giả đương thời lại cho rằng ngài chỉ thực sự sáng tác một vài bộ mà thôi. Quan trọng nhất là bộ Kệ Căn Bản về Trung Đạo trong đó ngài mở rộng lý luận về học thuyết “Tánh Không”. Trong Kinh Lăng Già, khi được hỏi ai là người sẽ giảng dạy giáo pháp Đại Thừa về sau nầy, thì Đức Phật đã tiên đoán về sự xuất hiện cũng như sự vãng sanh Cực Lạc của ngài Long Thọ: “Khi ta diệt độ khoảng 500 về sau sẽ có một vị Tỳ Kheo tên là Long Thọ xuất hiện giảng pháp Đại Thừa, phá nát biên kiến. Người ấy sẽ tuyên dương pháp Đại Thừa Tối Thượng của ta, và người ấy sẽ vãng sanh về cõi Cực Lạc.”
Theo sách Đại Đường Tây Vực Kí (q. 10) ghi chép, Bồ Tát Long Thọ trụ trì một ngôi chùa ở phía Nam kinh thành nước Kiều Tát La. Ngoài Phật pháp ra, ngài còn tinh thông y thuật, có tài chẩn bệnh bốc thuốc, tu tập dưỡng sinh, nên dù tuổi đã hơn trăm mà thân thể vẫn tráng kiện, tâm trí vẫn sáng suốt, không có dấu hiệu già lão. Long Thọ là bạn thân của vị quốc vương đương thời của nước ấy là Dẫn Chính (Satavahana), vua Yajnasri Gautamiputra thâm tín Tam Bảo, rất kính ngưỡng ngài, và vì uống thuốc của ngài cho mà cũng được sống lâu. Vì vậy, cậu con trai của nhà vua mới than thở với mẫu hậu:
- Phụ vương sống lâu quá như thế thì biết bao giờ con mới được lên ngôi!
Bà bảo thái tử:
- Phụ vương con sống lâu là nhờ phước lực cùng thang diệu dược của ngài Long Thọ. Nếu ngài nhập niết bàn thì chắc chắn phụ vương con cũng không sống thêm được nữa. Ngài là bậc trí tuệ cao siêu, tâm từ bi sâu rộng, cứu tế khắp sinh linh mà không kể đến thân mạng. Vậy con hãy đến chùa, xin cho được cái đầu lâu của ngài, thì nguyện vọng của con chắc thành!
Thái tử nghe lời mẹ, đến chùa, gặp lúc ngài đang thiền hành ở bên ngoài chùa. Ngài hỏi duyên sự, thì chàng thẳng thắn thưa rõ tâm nguyện của mình là đến để xin ngài bố thí cho cái đầu của ngài! Ngài dạy:
- Tôi tu hành là vì cầu quả Phật. Tôi học gương bố thí của đức Phật, nguyện không bao giờ từ chối bất cứ yêu cầu gì của người khác. Cái thân xác này chỉ là hư giả tạm bợ, tôi không tiếc gì với thái tử; nhưng quả thật là rất khó xử cho tôi, vì tôi chết rồi thì phụ vương của thái tử cũng không thể sống được!.
Nói rồi, ngài nhìn xuống đám cỏ, nhặt lên một lá cỏ, dùng nó tự cứa đứt cổ mà chết! Thái tử thấy thế hoảng sợ quá, liền bỏ chạy về cung, thuật lại sự việc cho phụ vương nghe. Nhà vua nghe xong sự tình, vì quá thương cảm và đau buồn mà sau đó cũng qua đời!
Theo Cảnh Đức Truyăn Đăng Lục thì về sau ngài bảo đệ tử thượng thủ là Ca Na Đề Bà:
- Đại pháp nhãn tạng của Như Lai nay trao cho ông.
Hãy nghe ta nói kệ:
Vị minh ẩn hiển pháp
Phương thuyết giải thốt lý
Ư pháp tâm bất chứng
Vô sân diệc vô hỉ
Dịch:
Vì rõ pháp ẩn hiện
Mới nói lý giải thốt
Nơi pháp tâm chẳng nhận
Không giận cũng không mừng
Truyền pháp xong ngài nhập nguyệt luân tam muội quảng hiện thần biến. Về lại tòa cũ mải miết vào thiền tịch (niết bàn).
Ca Na Đề Bà và các tứ chúng cùng xây bảo tháp để mai táng.
Nhằm năm Tần Thủy Hồng thứ 35, năm kỷ sửu (năm 209 công nguyên)1Năm Tần Thủy Hồng thứ 35, là năm 212 trước công nguyên, năm mậu tý. Sai lệch khoảng 400 năm! Theo Phật Quang Đại Từ Điển, Tổ Long Thọ sống khoảng thế kỷ thứ 2-3 sau công nguyên. .
Kệ truyền pháp:
Vị minh ẩn hiển pháp
Phương thuyết giải thoát lý
Ư pháp tâm bất chứng
Vô sân diệc vô hỷ.
Dịch :
Vì sáng pháp ẩn hiển
Mới nói lý giải thoát
Nơi pháp tâm chẳng chứng
Không sân cũng không hỷ.

Contact Information

Phone
Array
Address Array
This entry was posted in . Bookmark the permalink.