HT Chân Đạo Bích Phong

Personal Information

Danh Tánh
HT Chân Đạo Bích Phong- Ðời Thứ 40 Tông Lâm Tế
Gender ♂️ Male

Hành Trạng

Additional Info

Hòa thượng Chân Đạo Bích Phong (1901 - 1968)
Chùa Quy Thiện - Huế

Đại sư Chân Đạo Chánh Thống họ Nguyễn, người làng Trung Kiên huyện Triệu Phong tỉnh Quảng Trị, sinh ngày 30 tháng chạp năm Canh Tý, tức 18 tháng 2 năm 1901. Thân phụ là cụ Nguyễn Thuyên và mẹ là bà Nguyễn Thị Chợ. Theo chính lời của Đại sư thì đây là một gia đình Phật giáo thuần thành nhiều đời, nhưng coi Nho giáo như một bộ phận thiết yếu của đạo lý sống Phật giáo. Quan hệ giữa Phật giáo và Nho giáo được chính Đại sư ghi lại như sau: “Tôi người Trung Kiên tỉnh Quảng Trị, gia thế theo thiền, mà ông nội cùng với cha đều rất hiểu sâu Nho học. Phép giữ nhà lại rất nghiêm túc. Con cũng như cháu, nếu ai có chút bê trễ về lễ giáo, liền bị la mắng tới chốn (…) May mắn là nhà ta năm đời truyền cho nhau, đều lấy Khổng học làm nền móng, lấy Phật pháp làm lâu đài. Bọn các con nếu không kịp sớm nghiên cứu, thì ngày kia e khó thốt khỏi lời trách về xe vàng bạc, về con hạc nước già…”
Rõ ràng quan điểm về vị trí của Nho học và Phật học trong đời sống người Phật giáo được nhận thức như thế, xuất phát từ chủ trương của những người Phật giáo thời đại Phúc Chu. Họ đưa ra quan niệm người Phật giáo sống với Nho giáo nhưng tôn thờ Đức Phật, chủ trương cư Nho mộ Thích. Nằm trong xu thế chung của thời đại mình, thiền sư, tuy tuổi nhỏ “nhiều bệnh, yếu không mặc nổi áo”, nhưng lớn lên cắp sách đến trường học Nho.
Tới năm Giáp Dần (1914), do thấy “trào lưu mới ồ ạt dâng lên, trường Nho hoang vu”, Đại sư được cha mình đưa đi xuất gia với Đại sư Ngộ Tánh Phước Huệ (1875-1963) tại chùa Kim Quang, Huế, để “hầu không phụ lòng khăn khắng, tha thiết của cha ông”.
Năm Kỷ Mùi (1919) Đại sư thọ giới sa di, được đặt pháp danh là Chân Đạo, pháp tự là Chánh Thống, thuộc đời thứ 40 của dòng thiền Thập Tháp phái Lâm Tế. Hai năm sau, thọ cụ túc giới (1921) rồi hầu thầy ở Huế một thời gian và nhận kệ phú pháp với pháp hiệu Bích Phong.
Năm Giáp Tý (1924) trong thời gian đang hầu thầy để học tập, Đại sư đã đọc Chinh phụ ngâm và làm hai bài hò Mái nhị theo điệu Nam ai và Nam bình. Đây có thể nói là những tác phẩm đầu tay của Đại sư còn giữ được trong Thủy nguyệt tòng sao.
Tới năm 25 tuổi (1927), Đại sư vào học với Đại sư Phước Huệ (1869-1945) của chùa Thập Tháp tỉnh Bình Định, đến năm Kỷ Tỵ (1929) thì trở về Huế. Sau đó tham gia phong trào chấn hưng Phật giáo, để đến năm 1932 An Nam Phật Học Hội ra đời, Đại sư trở thành giảng sư của hội Phật học, đồng thời là “Phật học cao đẳng học sanh” của lớp đại học Phật học đầu tiên của thế kỷ XX do Đại sư Giác Tiên (1880-1936) cùng với bác sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám (1897-1969) tổ chức tại chùa Tây Thiên.
Chúng ta biết Đại sư phải trở thành giảng sư của An Nam Phật học hội vào khoảng những năm 1932-1933, vì năm 1935 báo Viên Âm 18 (1935) 26-39 đã đăng “bài giảng hôm rằm tháng mười (10 Novembre 1935) tại Hội Phật học chùa Từ Quang, Huế” với nhan đề Tứ Niệm xứ. Mở đầu bài giảng, Phật học cao đẳng học sanh Thích Chánh Thống đã nói: Năm trước giảng về Đạo đế đã nói 37 phép trợ Bồ đề phần là: Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ như ý túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất giác chi, Bát chánh đạo.
Khi nói thế, rõ ràng năm 1934 Đại sư đã từng được An Nam Phật học hội mời giảng tại chùa Từ Quang và chủ đề bài giảng là Đạo đế. Do vậy, Đại sư phải có mặt ở Huế vào đầu năm 1934 nếu không phải là năm 1929. Thời điểm năm 1929 này chúng tôi rút ra từ chính bài tựa do Đại sư viết ở đầu Thủy Nguyệt tòng sao của truyền bản hai tập: “Mùa thu năm Kỷ Tỵ (1929) lại trở về thủ đô mở dựng Phật học đường tại chùa Tây Thiên, bốn phương đến học ngày càng thêm đông”. Chữ kỷ của Kỷ Tỵ trong truyền bản vừa kể viết tương đối mờ, nên dễ đọc thành chữ ất của Ất Tỵ.
Ất Tỵ dĩ nhiên không phù hợp với công việc thành lập trường vừa nêu, vì nó chỉ năm 1905 hay năm 1965 của thế kỷ XX. Do thế, truyền bản ba quyển về sau đã sửa lại thành Ất Hợi, tức năm 1935. Thế nhưng, nếu đúng là Ất Hợi (1935) mới trở về Huế, thì làm sao có việc bài giảng năm 1935 đã nhắc tới bài giảng của năm trước, tức năm 1934? Vì vậy, chúng tôi chấp nhận thời điểm Kỷ Tỵ do truyền bản hai tập ghi lại. Nói cách khác, sau khi thọ đại giới 5 năm, vào năm 1927 Đại sư Chân Đạo Chánh Thống đã đến học với Đại sư Phước Huệ tại chùa Thập Tháp. Hai năm sau lại trở về Huế để cùng với Đại sư Giác Tiên tổ chức các lớp học, trong đó có lớp Trung học Phật giáo tại chùa Tây Thiên, đúng như lời tựa đã ghi. Đây chính là tiền đề để khi An Nam Phật học hội ra đời, Đại sư Chân Đạo Chánh Thống trở thành “Phật học cao đẳng học sanh” của lớp đại học Phật giáo đầu tiên cũng do Đại sư Giác Tiên tổ chức tại Tây Thiên, đồng thời là giảng sư của Phật học hội và thực hiện những buổi giảng tại chùa Từ Quang, Huế, mà một trong các bài giảng đã đăng lên báo Viên Âm từ năm 1935.
Đây cũng là thời điểm mà lời tựa của Thủy nguyệt tòng sao ghi Đại sư làm giảng viên của Phật học đường lúc 36 tuổi. Đến năm Đinh Sửu (1937) tính theo tuổi ta, Đại sư đã 38 tuổi, bèn kể tiếp: “Mùa đông năm đó, hội chủ chùa Quy Thiện là Đông các đại học sĩ nam tước Thái tướng công cùng phu nhân vâng ý chỉ của Khôn Nghi hoàng thái hậu, thỉnh ta làm tọa chủ chùa ấy, sắc trao chức Tăng Cang cấp bổng hàng tháng, để lãnh đạo trụ trì tự trưởng các chùa”.
Với những bổng lộc và chức tước như thế, Đại sư nhận xét: “Tuy gội được một chút hơi ấm ngày xuân, nhưng cũng không bằng cây tùng chịu lạnh, bèn riêng dựng một ngôi nhà bên phía trái của chùa, đặt tên Thủy nguyệt hiên, để tiện kê cứu giáo điển nội và ngoại. Thêm nữa, các mặc khách tao nhân thích chí của ta, nên gặp những ngày rỗi, mang rượu đi chơi núi, không chê chỗ cỏ nội hoa non, có lúc lại đến thăm viếng”.
Chính nơi hiên Thủy nguyệt này, bao nhiêu cuộc đàm luận về thơ văn và tư tưởng đã diễn ra, cũng như bao nhiêu tác phẩm đã được viết nên. Từ đó, bộ sưu tập các tác phẩm ấy đã mang tên Thủy nguyệt tòng sao. Trong thời gian giảng dạy tại Phật học đường Tây Thiên, năm 1937 Đại sư Tố Liên đã từ Bắc vào thăm. Hai vị chắc chắn đã bàn đến vấn đề thống nhất Phật giáo cả nước, khi ba miền bắc trung nam đều có hội Phật học của mình và phê phán mạnh mẽ một quan điểm thời đó cho rằng việc bàn tới thống nhất Phật giáo cả nước là một việc làm xằng bậy, như hai câu kết của bài Đường luật do Đại sư Tố Liên viết tặng cho Đại sư Chân Đạo Chánh Thống đã nói tới và được Đại sư ghi lại:
Pháp quỷ tương lai quân đắc chí
Tam kỳ hiệp triệt vọng đàm gia
(Đạo pháp tương lai anh đắc chí
Ba kỳ thống nhất há bàn xăng)
Cũng trong thời gian này, Đại sư tiếp tục giảng tại chùa Từ Quang của hội Phật học. Chùa Từ Quang thời này do Đại sư Giác Bổn trú trì, mà Đại sư có một quan hệ rất chặt chẽ, thể hiện qua một số bài thơ Đại sư viết về người bạn đạo ấy trong Thủy nguyệt tòng sao. Từ năm 1937 trở đi, Đại sư Chân Đạo Chánh Thống chắc chắn đã có một lần ra Bắc thăm viếng, trong đó có cả việc gặp Đại sư Trung Thứ và làm thơ họa lại bài thơ của vị Đại sư danh tiếng này, mà ta còn tìm thấy trong Thủy nguyệt tòng sao.
Năm Tân Tỵ (1941) Đại sư được Tri huyện Ngô Đình Nhuận (hẳn lúc đó đã từ quan) mời nghe đánh đàn. Ta đã biết đây là thời điểm mà trên thế giới thế chiến thứ II đã bùng nổ và tại nước ta phong trào vận động cho độc lập dân tộc đang diễn ra ào ạt. Cho nên, Đại sư đã ghi lại nỗi buồn bã và đau thương trước tình hình đó qua bốn câu thơ:
Tay nắm dìu nhau bước tới lầu
Nghe đàn vô cớ nỗi buồn đau
Trong như tiếng quốc mong quê cũ
Nhỏ tựa thuyền cô góa phụ sầu.
Sau năm 1941 này, chắc nhiều bài thơ đã được Đại sư viết ra để ghi lại những xúc cảm và quan điểm của mình trước các biến cố chính trị đang xảy ra. Song, có lẽ vì liên quan đến thời cuộc chính trị, những sáng tác thơ văn trong giai đoạn này không còn tìm thấy tại Thủy nguyệt tòng sao. Chỉ đến năm Bính Tuất, khi Đại sư Đôn Hậu đến trú trì chùa Linh Mụ thì Đại sư đến thăm và ghi lại bằng bài thơ Thăm Đại sư Đôn Hậu mới nhận chức tự chủ chùa Linh Mụ. Đến ngày 19 tháng chạp năm 1946, lúc cả nước đứng lên kháng chiến, qua năm sau Đại sư đã viết về cuộc chiến tranh ấy, khi họa lại bài thơ cùng chủ đề của cụ Ưng Bình Thúc Giạ Thị, kể lại cảnh mưa đạn rừng súng rồi phiêu dạt nơi chân trời góc biển.
Qua năm Mậu Tý (1948), trở về chùa sau đợt tản cư, Đại sư đã đến thăm một số chùa, nhưng chỉ thấy các tổ đình Quốc Ân, Từ Hiếu là được ghi lại.
Đến năm Kỷ Sửu (1949), một mặt thì Đại sư Giác Bổn mất, mà ta thấy có bài thơ truy điệu, mặt khác đại giới đàn chùa Báo Quốc lại được nhằm ổn định lại đời sống Phật giáo, Đại sư đã tham gia với tư cách người viết các văn bản cho giới đàn. Thậm chí còn viết một bài phú về giới đàn ấy để kỷ niệm.
Tới năm Tân Mão (1951), Phật giáo cả nước họp lại để thống nhất thành Tổng hội Phật giáo Việt Nam, Đại sư đã tham gia và viết nhiều bài thơ chúc mừng đại hội thành công.
Năm sau, Nhâm Thìn (1952), Đại sư ra Bắc trong phái đoàn Phật giáo miền Trung để họp thống nhất Tăng già Việt Nam, nhân đó đã làm thơ mừng Đại sư Tuệ Tạng được bầu làm Thượng thủ Giáo hội Tăng già. Sau đó Đại sư vẫn tiếp tục dạy học.
Năm Mậu Tuất (1958) lại được mời vào Bình Định dạy ở chùa Thập Tháp cho các học tăng như Đại sư Khế Châu, Mật Hạnh v.v…
Đến ngày 22 tháng chạp năm Đinh Mùi, tức 21 tháng 1 năm 1968, Đại sư đau sơ rồi viên tịch, thọ 67 tuổi, 47 hạ lạp.
(Lê Mạnh Thát giới thiệu)

Contact Information

Phone
Array
Address Array
This entry was posted in . Bookmark the permalink.