HT Chơn Giám Trí Hải

Personal Information

Danh Tánh
HT Chơn Giám Trí Hải - Ðời Thứ 40 Tông Lâm Tế - Ðời Thứ 7 Dòng Lâm Tế Chúc Thánh
Gender ♂️ Male

Hành Trạng

Additional Info

Hòa thượng Chơn Giám - Ðạo Quang - Trí Hải
眞 監 道 光 智 海 (1876 - 1950): Chùa Bích Liên

Hòa thượng thế danh Nguyễn Trọng Khải, hiệu Mai Ðình sinh ngày 16 tháng 3 năm Bính Tý (1876), tại làng Háo Ðức, phủ An Nhơn, nay là ấp Háo Ðức, xã Nhơn An, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Ðịnh.
Ngài sinh trưởng trong một gia đình Nho học, được theo nghiệp bút nghiên từ nhỏ. Năm 31 tuổi, Ngài thi Hương ở Bình Ðịnh và đỗ Tú tài. Ba năm sau, Ngài lại đỗ Tú tài lần nữa. Từ đó, biết mình long đong trên bước đường khoa bảng, Ngài giã từ lều chõng, ở nhà mở trường dạy học.

Hòa thượng Trí Hải (Bích Liên)

Năm Mậu Ngọ (1918), có một nhà sư đem cho Ngài hai quyển Long Thơ Tịnh Ðộ là bộ sách thuyết minh pháp môn niệm Phật để cầu sanh về cõi Tây phương Cực Lạc. Sau khi đọc xong, Ngài ngộ cảnh đời tìm đường xuất gia học đạo.
Năm Kỷ Mùi (1919), Ngài đến chùa Thạch Sơn ở Quảng Ngãi quy y thọ giới với Hòa thượng Ấn Lãnh–Hoằng Thạc được ban pháp danh Chơn Giám, tự Ðạo Quang, hiệu Trí Hải, nối pháp đời 40 dòng Lâm Tế, thế hệ thứ 7 pháp phái Chúc Thánh.
Nhờ tinh thông Hán học, lại gặp thiện duyên, sau vài năm tham học và đắc pháp với Hòa thượng Hoằng Thạc (năm 1921), Ngài đã diệu nhập Phật tạng, thông suốt yếu lý giải thoát. Tuy mới xuất gia, nhưng Ngài sớm trở thành một Tăng sĩ quảng kiến đa văn, đạo cao đức trọng.
Năm Mậu Thìn (1928), Hòa thượng Khánh Hòa, trú trì chùa Tuyên Linh ở Bến Tre mời Ngài vào nam hoạt động cho phong trào chấn hưng Phật giáo.
Năm Tân Mùi (1931), Hòa thượng Khánh Hòa cùng các pháp hữu thành lập Hội Nam kỳ nghiên cứu Phật học và xuất bản tờ báo Từ Bi Âm, Hòa thượng được mời làm chủ bút tạp chí Phật học đầu tiên này. Ngài phụ trách về nội dung trong sáu năm đóng góp rất nhiều trong việc phổ thông hóa Phật học bằng Quốc ngữ, giữ vai trò hoằng pháp đáng kể trong giai đoạn chấn hưng.
Năm Giáp Tuất (1934), Ngài về quê khai sơn chùa Bích Liên tại sinh quán Bình Ðịnh. Từ đó, để tỏ lòng kính trọng, trong tòng lâm ít người gọi đạo hiệu của Ngài, mà thường tôn xưng Ngài là Hòa thượng Bích Liên.
Năm Ðinh Sửu (1937), Ngài trở về chùa Bích Liên, nhằm lúc Hội Ðà thành Phật học xuất bản tạp chí Tam Bảo, mời Ngài làm chủ bút. Nửa năm sau, Mậu Dần (1938) tạp chí Tam Bảo bị đình bản. Từ đó Ngài dành thời giờ cho công tác Phật sự tại tỉnh nhà.
Năm Kỷ Mão (1939), Ngài phụ giảng tại Phật học đường Long Khánh do Hòa thượng Chánh Nhơn thành lập. Ngài giảng dạy trong hai năm ngắn ngủi, nhưng phần lớn Tăng sinh ở đây thọ ơn pháp vũ của Ngài, tinh tấn tu học. Sau này có nhiều vị là Cao tăng của Giáo hội như Hòa thượng Thích Trí Ðộ, Hòa thượng Thích Huyền Ấn, Hòa thượng Thích Huyền Quang, Hòa thượng Thích Giải An v.v...
Hóa duyên đã mãn, ngày mồng 3 tháng 6 năm Canh Dần (1950) Ngài viên tịch tại chùa Bích Liên, thọ 74 tuổi, xuất gia 31 năm.
Về công việc trước tác và phiên dịch, ngoài những bài đăng trên báo Từ Bi Âm, Ngài còn viết các sách bằng chữ Hán:
– Liên tông thập niệm yếu lãm
– Tịnh độ huyền Cảnh
– Tây song ký
– Tích lạc văn
Văn phong chữ Nôm của Ngài rất chỉnh. Ngài đã sáng tác nhiều áng văn hay cùng nhiều bài sám nghĩa lưu truyền. Quy Sơn Cảnh Sách và Mông Sơn Thí Thực Khoa Nghi là hai tác phẩm dịch Nôm nổi tiếng, tiêu biểu cho sự nghiệp văn chương của Ngài.

Contact Information

Phone
Array
Address Array
This entry was posted in . Bookmark the permalink.