HT Chơn Miên Trí Hưng

Personal Information

Danh Tánh
HT Chơn Miên Trí Hưng - Ðời Thứ 40 Tông Lâm Tế - Ðời Thứ 7 Dòng Lâm Tế Chúc Thánh
Gender ♂️ Male

Hành Trạng

Additional Info

Hòa thượng Chơn Miên - Ðạo Long - Trí Hưng
眞 綿 道 隆 智 興 (1908 - 1986): Chùa Thiền Lâm

Hòa thượng Trí Hưng

Hòa thượng pháp danh Chơn Miên, tự Ðạo Long, hiệu Trí Hưng, nối pháp đời 40 tông Lâm Tế, thế hệ thứ 7 pháp phái Chúc Thánh. Ngài thế danh Nguyễn Tăng, sinh ngày mồng 8 tháng 7 năm Mậu Thân (1908) tại làng Thạch Trụ, xã Ðức Mỹ, quận Mộ Ðức, tỉnh Quảng Ngãi. Thân phụ là cụ ông Nguyễn Thân và thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Ðịnh.
Ngài sinh trưởng trong một gia đình nhiều đời làm quan triều đình và kính tin Phật pháp. Song thân của Ngài bình sinh rất ngưỡng mộ đức độ vị Ðệ tứ Tổ sư Tổ đình Thiên Ấn, Quảng Ngãi, thường hay đến hỏi pháp, nghe giảng. Tuổi còn ấu niên, song thân đã đưa Ngài đến xin quy y với Tổ Hoằng Phúc được Tổ đặt cho pháp danh Chơn Miên.
Năm Canh Ngọ (1930), Ngài xuất gia với Hòa thượng Ấn Lãnh–Hoằng Thạc tại chùa Thạch Sơn.
Năm Quý Dậu (1933), Ngài thọ Sa–di giới và năm Giáp Tuất (1934) thì thọ Tam đàn Cụ túc giới, tại giới đàn chùa Thạch Sơn do Hòa thượng Bổn sư làm Ðàn đầu truyền giới.
Năm Ất Hợi (1935), Ngài được Bổn sư phú pháp hiệu Trí Hưng và cử làm Giám viện chùa Sắc tứ Thạch Sơn.
Năm Mậu Dần (1938), Ngài được cử giữ chức Kiểm Tăng tỉnh Quảng Ngãi. Ngài tổ chức chấn chỉnh Tăng đồ, lập Tăng ước và xin triều đình ban Sắc tứ cho các chùa xưa trong tỉnh.
Năm Mậu Dần (1938), Hội An Nam Phật học tỉnh Quảng Ngãi được thành lập, Ngài cùng Ðại lão Hòa thượng Hoằng Thạc và Tăng cang Diệu Quang được cung thỉnh làm Chứng minh đạo sư kiêm Cố vấn đạo hạnh cho Tỉnh hội. Năm này, Ngài hợp cùng Tăng cang Diệu Quang trùng tu chánh điện Tổ đình Thiên Ấn. Cũng năm này, chùa Phước Sơn huyện Bồng Sơn, tỉnh Bình Ðịnh khai Ðại giới đàn thỉnh Ngài làm Ðệ thất tôn chứng.
Năm Kỷ Mão (1939), chùa Từ Lâm do Ngài kiến tạo được triều đình Sắc tứ biểu ngạch và Ngài được sắc chỉ chuẩn phong Tăng cang.
Năm Giáp Thân (1944), Ngài chứng minh Giới đàn tại chùa Thiên Phước, quận Mộ Ðức, tỉnh Quảng Ngãi, do Ngài Yết–ma Khánh Hạ tổ chức. Những năm kế tiếp, Ngài đảm nhận chức kế Tổ Thiên Ấn. Chùa Thiên Ðức ở Gò Bồi (Bình Ðịnh) khai Ðại giới đàn, cung thỉnh Ngài chứng đàn. Rồi chùa Thiên Ấn bị bão lụt tàn phá, Ngài đứng ra đảm trách trùng tu lại.
Năm Ðinh Hợi (1947), Ngài ra Huế nhận trú trì chùa Huệ Lâm, đồng thời thành lập tổ chức Chư sơn Thuyền lữ và giữ chức Tòng lâm Thuyền chủ.
Năm Nhâm Thìn (1952), đáp lời mời của Phật giáo miền Bắc, ngày 5/3 Ngài ra thăm Hà Nội. Ngài đã đến viếng tổ Vĩnh Tường tại chùa Thần Quang Ngũ Xã, tổ Thuyền gia Pháp chủ Mật Ứng tại chùa Hòa Giai, Sư cụ chùa Bà Ðá và chiêm bái các danh lam thắng tích của miền Bắc.
Tháng 3 năm Ất Mùi (1955), Ngài trở lại tỉnh nhà và trùng tu Tổ đình Thiên Ấn. Ngài chứng minh thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Quảng Ngãi để hợp pháp hóa việc hoằng đạo và tiến hành đại hội thành lập Phật giáo Cổ sơn môn sau này.
Năm Ðinh Dậu (1957), Ngài được Giáo hội Cổ sơn môn ủy nhiệm đặc trách miền Trung và Cao Nguyên Trung phần và Ngài được cử chức Tăng trưởng GHCSM tỉnh Quảng Ngãi.
Năm Canh Tý (1960), Ngài trùng tu chùa Từ Lâm hoàn tất và tổ chức khánh thành rất trọng thể.
Năm Tân Sửu (1961), Ngài khai giới đàn và được cung thỉnh làm Ðàn đầu Hòa thượng.
Năm Nhâm Dần (1962), Ngài vào Sài–gòn vận động thành lập Trung ương Giáo hội Phật giáo Cổ sơn môn Việt Nam. Trong Ðại hội năm Quý Mão (1963), Ngài được cử giữ chức Phó tăng thống Quản tăng Trung ương GHCSM. Ngày 13 tháng 2 năm Ất Tỵ (1965), Ngài được mời trú trì chùa Thiền Lâm số 570/2 đường Lục Tỉnh, Phú Lâm, Chợ Lớn.
Ngày 26 tháng 9 năm 1966, tại đại hội GHCSM, Ngài được cử giữ chức Phó tăng thống kiêm Hành chánh và Ðiều hành Giáo hội. Từ chức vụ này, Ngài tiếp kiến nhiều vị Danh tăng nước ngoài như Ðại đức Narada Maha Théra (Tích–lan), Thượng tọa Yoshioka (Phật giáo Tăng Già Nhật Bản), ngài Hội trưởng Phật giáo Nam Hàn v.v...
Ngày 15 tháng 2 năm Bính Thìn (1976), Ngài khai mở trường Hương tại chùa Thiền Lâm, quy tụ hơn 100 giới tử từ các Tỉnh hội.
Tuổi già sức yếu sau hơn 50 năm hành đạo, hoằng pháp lợi sanh rộng khắp Trung, Nam; ngày 14 tháng 9 năm Bính Dần (17–10–1986), Ngài đã viên tịch tại chùa Thiền Lâm, thọ thế 79 năm, 57 tuổi hạ.

Contact Information

Phone
Array
Address Array
This entry was posted in . Bookmark the permalink.