HT Chơn Quý Khánh Anh

Personal Information

Danh Tánh
HT Chơn Quý Khánh Anh - Ðời Thứ 40 Tông Lâm Tế - Ðời Thứ 7 Dòng Lâm Tế Chúc Thánh
Gender ♂️ Male

Hành Trạng

Additional Info

Hòa thượng Chơn Quý - Ðạo Trân - Khánh Anh
眞 貴 道 珍 慶 瑛 (1895 - 1961): Chùa Phước Hậu

Hòa thượng thế danh Võ Hóa (Võ Bổng), pháp danh Chơn Quý, pháp tự Ðạo Trân, pháp hiệu Khánh Anh, nối pháp đời 40 dòng Lâm Tế, thế hệ thứ 7 pháp phái Chúc Thánh. Ngài sinh năm Ất Mùi (1895) tại xã Phổ Nhì, tổng Lại Ðức, huyện Mộ Ðức, tỉnh Quảng Ngãi.

Hòa thượng Khánh Anh

Năm Bính Thìn (1916), khi vừa tròn 21 tuổi Ngài xuất gia với Hòa thượng Ấn Tịnh– Hoằng Thanh tại chùa Cảnh Tiên, Quảng Ngãi. Năm Ðinh Tỵ (1917), Ngài được nhập chúng tu học ở chùa Quang Lộc trong tỉnh, thọ giới Sa–di với pháp tự Ðạo Trân. Sẵn có căn bản Hán học vững chắc, Ngài thâm nhập kinh tạng rất mau chóng. Ngài lần lượt nghiên cứu kinh, luật, luận rồi thọ giới Tỳ–kheo, Bồ–tát tại giới đàn chùa Sắc tứ Phước Quang vào năm Canh Thân (1920) do ngài Tăng cang Hoằng Tịnh làm Ðàn đầu và đắc pháp với pháp hiệu Khánh Anh. Khi tròn 30 tuổi, Ngài trở thành một vị giảng sư Phật học nổi tiếng.
Năm Ðinh Mão (1927), Ngài được mời vào Nam làm Pháp sư dạy tại trường gia giáo chùa Giác Hoa tỉnh Bạc Liêu.
Năm Mậu Thìn (1928), Ngài lại về dạy Phật pháp tại chùa Hiền Long tỉnh Vĩnh Long.
Qua năm Tân Mùi (1931), Ngài nhận lời mời làm trú trì chùa Long An, xứ Ðồng Ðế, tỉnh Cần Thơ.
Năm Ất Hợi (1935), Ngài hợp tác với các Hòa thượng Khánh Hòa, Huệ Quang, Pháp Hải v.v... lãnh đạo Hội Lưỡng Xuyên Phật học đặt trụ sở tại chùa Long Phước tỉnh Trà Vinh, mở Phật học đường tại đây để đào tạo Tăng tài, truyền trì đạo pháp và cộng tác với Tạp chí Duy Tâm – cơ quan truyền bá đạo Phật của Hội.
Năm Canh Thìn (1940), Ngài được mời làm Pháp sư dạy 3 tháng tại chùa Thiên Phước ở Tân Hương, tỉnh Tân An. Qua năm sau, Ngài lại đến dạy Phật học trong 3 tháng cho Ðại giới đàn chùa Linh Phong ở Tân Hiệp.
Năm Tân Tỵ (1941), Ngài về trú trì chùa Phước Hậu ở Trà Ôn, tỉnh Cần Thơ mở các lớp giáo lý cho Tăng ni và tín đồ tại đây.
Năm Ất Dậu (1945), Ngài được Hòa thượng Huệ Quang mời về dạy trường gia giáo tại chùa Long Hòa, quận Tiểu Cần, tỉnh Trà Vinh.
Sau cách mạng tháng 8 năm 1945, Ngài về nhập thất tại chùa Phước Hậu để tâm nghiên cứu Tam tạng kinh điển.
Năm Ất Mùi (1955), Hội Phật học Nam Việt thành lập, cung thỉnh Ngài vào Ban chứng minh.
Năm Ðinh Dậu (1957), Ðại hội Giáo hội Tăng Già Nam Việt kỳ III họp tại chùa Ấn Quang đã suy tôn Ngài lên ngôi vị Pháp chủ để lãnh đạo Phật giáo miền Nam.
Ðến năm 1959, Ðại hội Giáo hội Tăng Già toàn quốc kỳ II đã long trọng suy tôn Ngài lên ngôi vị Thượng Thủ để cầm cương lĩnh vận mệnh Phật giáoViệt Nam.
Vào ngày 30 tháng Giêng năm Tân Sửu (16/4/1961), Ngài viên tịch hưởng thọ 66 tuổi đời với 45 năm sống với đạo.
Sự nghiệp trước tác và dịch phẩm của Ngài để lại gồm có:
– Hoa Nghiêm nguyên nhân luận
– Nhị khóa hiệp giải
– 25 Bài thuyết pháp của Thái Hư Ðại sư
– Tại gia cư sĩ luật
– Duy thức triết học
– Quy nguyên trực chỉ
– Khánh Anh văn sao (3 tập)

Contact Information

Phone
Array
Address Array
This entry was posted in . Bookmark the permalink.