HT Ðồng Chơn Thông Niệm

Personal Information

Danh Tánh
HT Ðồng Chơn Thông Niệm - Ðời Thứ 43 Tông Lâm Tế - Ðời Thứ 10 Dòng Lâm Tế Chúc Thánh
Gender ♂️ Male

Hành Trạng

Additional Info

Hòa Thượng Đồng Chơn Thông Niệm
(1914 - 1990)
Chùa Bát Nhã - Đà Nẵng

Hòa thượng thế danh Nguyễn Văn Kỉnh, sinh giờ Thìn ngày 14 tháng 2 năm Giáp Dần (1914) niên hiệu Duy Tân năm thứ 8 tại thôn Vọng Trì, xã Phú Mậu, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên-Huế. Thân phụ là cụ ông Nguyễn Văn Xương và thân mẫu là cụ bà Lê Thị Hoằng.
Được sinh trưởng trong một gia đình kính tin Tam Bảo nên cậu bé Kỉnh sớm được đến chùa nghe kinh niệm Phật. Với chủng tánh sâu dày, khi vừa tròn 10 tuổi thì Ngài đã phát nguyện xuất gia đầu Phật. Song thân đã đưa Ngài đến chùa Viên Thông, tại núi Ngự Bình xã An Cựu, huyện Hương Thủy lạy Hòa thượng Thị Bình-Diệu Khai xin thế phát. Hòa thượng hoan hỷ nhận làm môn hạ nhập chúng tu học tại ngôi tổ đình lịch sử của Phật giáo Thừa Thiên-Huế.
Sau một thời gian dài hành điệu, với bổn tánh cần mẫn hiền hòa Ngài rất được Bổn sư yêu mến. Vào tháng 10 năm Giáp Tuất, Ngài được Hòa thượng bổn sư cho thọ Sa Di giới với pháp danh Đồng Chơn, tự Thông Niệm, kế tiếp dòng pháp Lâm Tế đời 43 và thế hệ thứ 10 pháp phái Chúc Thánh.
Sinh ra và trưởng thành trong giai đoạn đất nước bị xâm lăng, lòng người ly tán. Lại nữa, Ngài sống gần chốn kinh kỳ chứng kiến biết bao sự thạnh suy hưng phế của hoàng triều nhà Nguyễn. Năm Ất Dậu (1945), vua Bảo Đại thoái vị, chính quyền cách mạng chấp chính v.v… Với những biến cố xảy ra liên tục, Ngài đã xin Bổn sư được vân du hành đạo.
Năm Nhâm Ngọ (1942), Hòa thượng vào Quảng Nam và được Tổng Hội Phật Giáo Trung Phần cử làm trụ trì chùa Pháp Bảo-Hội An. Tại khu phố nhỏ cổ kính này, Ngài gặp Hòa thượng Phổ Thoại-tổ khai sơn chùa Long Tuyền, cảm mộ đạo phong của Tổ, Ngài đến cầu pháp và được ban pháp hiệu là Long Hưng.
Năm Đinh Hợi (1947), người Pháp quay lại tái chiếm Việt Nam. Hưởng ứng phong trào tiêu thổ kháng chiến của Việt Minh phát động, Ngài đã thỉnh tượng Phật đồng và đại hồng chung theo dòng người tản cư lên làng Phú Đa, Bến Dầu. Sau đó, xét thấy cuộc kháng chiến còn trường kỳ nên Ủy Ban Kháng Chiến đã quyết định để những người già yếu và không đủ khả năng chiến đấu trở về vùng Pháp chiếm để sinh sống. Một thân một mình, Ngài lại thỉnh tượng Phật và đại hồng chung về lại chùa xưa vào mùa thu năm Kỷ Sửu (1949). Bấy giờ, chùa Tỉnh Hội (nay là chùa Pháp Bảo-Hội An) bị chiến tranh tàn phá cháy sém một góc, hai năm sau mới trùng tu lại.
Vào ngày 14 tháng 8 năm Kỷ Sửu (1949), Ngài chính thức thọ Cụ Túc giới tại giới đàn Hộ Quốc chùa Báo Quốc-Huế do Hòa thượng Thích Tịnh Khiết làm Hòa thượng Đàn đầu truyền giới. Cùng thọ giới với Ngài còn có Hòa thượng Thích Trí Giác và Hòa thượng Thích Quang Thể.
Sau khi thọ đại giới, Ngài được Giáo Hội Tăng Già Quảng Nam Đà Nẵng cử làm trụ trì chùa Bảo Thắng. Tại nơi đây, Ngài tận tâm xây dựng ngôi Tam Bảo nên Bảo Thắng dần dần trở thành một ngôi chùa hiện hữu sinh động trong khu phố cổ bên dòng sông Hòai hiền dịu.
Năm Đinh Dậu (1957), thể theo yêu cầu của anh Ngài là Thượng tọa Chơn Không (Nguyễn Văn Tùy)-khai sơn chùa Bát Nhã, Ngài ra đảm nhiệm trụ trì chùa Bát Nhã tại thị xã Đà Nẵng, chùa Bảo Thắng được Giáo Hội cử Sư bà Đàm Minh về làm trụ trì để phát triển Ni bộ tại Quảng Nam. Từ đây, đạo hữu Phật tử dần dần quy tụ về chùa Bát Nhã tu học dưới sự hướng dẫn của Ngài.
Năm Quý Mão (1963), Phật giáo Việt Nam bị nạn kỳ thị của chính quyền Ngô Đình Diệm, khắp nơi phong trào tranh đấu dâng lên mạnh mẽ. Tại thị xã Đà Nẵng, Phật giáo đồ hưởng ứng lời kêu gọi của Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo xuống đường tranh đấu cho 5 nguyện vọng chính đáng của Phật giáo. Mùa tranh đấu này, Hòa thượng tham gia tích cực dưới sự lãnh đạo của chư Hòa thượng Thích Tôn Bảo, Thích Tôn Thắng, Thích Hương Sơn v.v….Có lần Ngài xin Ủy ban tranh đấu cho Ngài được tự thiêu để cúng dường chư Phật và bảo vệ đạo pháp, nhưng không được chấp thuận.
Trong sự tu học, Ngài cảm nhận sự màu nhiệm của đức Bồ tát Quan Thế Âm, đồng thời hình ảnh cứu khổ của Bồ tát gần gũi dễ đưa người đến với đạo. Vì thế, Ngài quyết định tôn tạo một bức tượng Quan Thế Âm tôn trí trong khuôn viên chùa Bát Nhã để tín đồ lễ bái cầu nguyện. Vào ngày 11 tháng 2 năm Quý Mão (1963), Ngài đặt đá xây dựng tượng đài Quan Thế Âm lộ thiên dưới sự chứng minh của nhị vị Hòa thượng Thích Tôn Bảo và Thích Tôn Thắng cùng chư Tăng Quảng Nam Đà Nẵng. Công trình xây dựng kéo dài gần 1 năm và lễ an vị được tổ chức vào ngày vía Quan Âm 19 tháng 9 cùng năm. Và ngày nay, tượng Bồ tát Quan Thế Âm tại chùa Bát Nhã là một trong những tôn tượng đẹp và linh ứng mầu nhiệm nhất tại thành phố Đà Nẵng.
Năm Canh Tuất (1970), Ngài được cung thỉnh làm Tả Giám Đàn cho đại giới đàn Vĩnh Gia do Hòa thượng Thích Giác Nhiên-đệ nhị Tăng thống GHPGVNTN làm Đàn đầu.
Năm Tân Hợi (1971), nhận thấy ngôi chùa Bát Nhã đã xuống cấp, không đáp ứng được nhu cầu tu học của chư Tăng và tín đồ Phật tử nên Ngài phát nguyện đại trùng tu toàn bộ. Công trình đang xây dựng dở dang thì đất nước thống nhất vào mùa xuân năm 1975. Trong giai đoạn giao thời còn rất nhiều khó khăn về mọi mặt, nhưng với tâm nguyện và ý chí kiên định, Ngài đã vượt thắng tất cả để công việc trùng tu được hoàn tất vào năm 1983. Công trình tái thiết chùa Bát Nhã với kiến trúc 1 tầng lầu làm chánh điện và tầng trệt làm nhà giảng đã được tổ chức khánh thành trọng thể vào ngày 15 tháng 9 năm Quý Hợi (20/10/1983).
Sau khi công trình trùng tu hoàn tất, Ngài chuyên tâm tu niệm, sáng tối hai thời kinh kệ cầu nguyện quốc thái dân an. Lần lần, môn đệ tín đồ quy tụ khiến cho chốn Già lam Bát Nhã ngày càng hưng thịnh.
Thành, trụ, hoại, không là định luật xưa nay vẫn vậy, Hòa thượng đã thuận theo quy luật ấy, giã từ tứ chúng vào lúc 0 giờ ngày 15 tháng 5 năm Canh Ngọ (1990), hưởng thọ 77 xuân thu và 40 mùa hạ an cư kiết giới. Bảo tháp được kiến tạo trong khuôn viên tổ đình Phước Lâm-Hội An.

Contact Information

Phone
Array
Address Array
This entry was posted in . Bookmark the permalink.