Additional Info
Hòa thượng Ðồng Phước - Thông Bửu - Viên Khánh
同 福 通 寳 圓 慶 (1936 - 2007): Chùa Quán Thế Âm
Hòa thượng thế danh Trần Thượng Hiền, sinh ngày 2 tháng 9 năm Bính Tý (1936) tại xã Xuân Quang 2, huyện Ðồng Xuân, tỉnh Phú Yên. Thân phụ là cụ ông Trần Quá pháp danh Thiện Hóa và thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Ngã pháp danh Quảng Ngộ.

Hòa thượng Thông Bửu
Năm Bính Thân (1956), Ngài xin song thân cho xuất gia tu hành. Ðược song thân đồng ý, Ngài đến chùa Long Hà, xã Xuân Long, huyện Ðồng Xuân theo hầu Hòa thượng Thích Như Tâm. Ðến năm Ðinh Dậu (1957), Ngài vào Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa tìm cầu học hỏi Phật pháp, duyên lành gặp Hòa thượng Thích Quảng Ðức tại Tổ đình Thiên Bửu Thượng, Ngài khẩn cầu xin làm đệ tử và được Hòa thượng hoan hỉ tiếp nhận, ban cho pháp danh Ðồng Phước, tự Thông Bửu, nối pháp đời 43 tông Lâm Tế, thế hệ thứ 10 pháp phái Chúc Thánh. Sau đó Hòa thượng Thích Quảng Ðức đã trở vào Nam hoằng hóa, thầy trò không gặp nhau nên Ngài cầu Hòa thượng Thích Viên Giác chùa Giác Hải, Vạn Giã làm Y chỉ sư nương tựa tu học và đã thọ giới Tỳ–kheo Bồ–tát giới vào năm 1960.
Năm Nhâm Dần (1962), được tin Hòa thượng Bổn sư đang phổ hóa Phật pháp tại Sài–gòn, Ngài xin Hòa thượng Y chỉ sư cho vào Nam gặp thầy tổ và được Hòa thượng giao trách nhiệm trú trì chùa Quán Thế Âm, Sài–gòn.
Năm 1963 Phật giáo lâm vào pháp nạn. Hòa thượng Bổn sư và Ngài dấn thân vào cuộc đấu tranh cho sự trường tồn của đạo pháp và dân tộc, mà đỉnh cao của cuộc đấu tranh là ngọn lửa tự thiêu của Bồ–tát Quảng Ðức làm chấn động lòng người, kéo theo sự sụp đổ triều đại Ngô Ðình Diệm sau đó.
Với tâm nguyện phát triển Tổ đình làm nơi tu học cho hàng xuất gia và tại gia, năm Ất Tỵ (1965) Ngài đã cung thỉnh Hòa thượng Thích Vạn Ân chùa Hương Tích, Phú Yên về Tổ đình chứng minh. Thời gian này Ngài cầu pháp với Hòa thượng, được ban pháp hiệu Viên Khánh và được trao truyền pháp hành trì Mật tông. Do nhu cầu Phật sự, Ban đại diện Phật giáo Tỉnh cung thỉnh Hòa thượng Thích Vạn Ân về lại Phú Yên làm Chứng minh đạo sư Giáo hội, nên Ngài cung thỉnh Hòa thượng Thích Huyền Cơ về Chứng minh Tổ đình, tiếp Tăng độ chúng.
Năm Ất Tỵ (1965), Ngài mở mang Tổ đình thành tu viện và từ đó cho đến nay Ngài đã nhận 31 đệ tử xuất gia và cầu pháp. Ðặc biệt năm Ðinh Mùi (1967), Ngài mở trường hạ, tổ chức giới đàn Sa–di tại Tổ đình, Ngài làm Hóa chủ kiêm Ðàn chủ. Từ năm 1968 đến 1974 liên tục mở các khóa An cư Kết hạ, mời giảng sư giảng dạy kinh luật luận cho chư Tăng.
Song song với việc tiếp Tăng độ chúng, Ngài còn chú trọng đến công tác giáo dục và đào tạo Tăng tài, nên đã tham gia giảng dạy tại trường Cao Trung Phật học Ðại Tòng Lâm, tỉnh Bà Rịa–Vũng Tàu.
Ðể phổ hóa sâu rộng giáo lý Ðạo Phật vào quần chúng, những năm 1964–1985 Ngài đã tổ chức đạo tràng Diệu Pháp Liên Hoa tại Tổ đình Quán Thế Âm, giảng dạy cho Phật tử, tín đồ nắm rõ phương pháp tu hành. Năm Tân Mùi (1991), Ngài thành lập 6 Liên chúng đưa đạo tràng vào sự tu học có tổ chức, cung thỉnh 14 vị Hòa thượng, Thượng tọa thành lập Ban giáo thọ giảng dạy giáo lý cho Phật tử. Ngài cũng rất quan tâm đến thế hệ trẻ, nên năm 1965 thành lập Gia đình Phật tử Chánh Ðức, hướng dẫn các em học tập giáo lý nhà Phật.
Chẳng những quan tâm truyền bá giáo lý Phật giáo cho giới Tăng ni, Phật tử, mà Ngài còn cố gắng đưa tinh thần đạo Phật rộng khắp qua mảng văn hóa để làm lợi lạc quần sanh như:
– Năm Ất Tỵ (1965), Ngài sáng lập và làm Chủ nhiệm kiêm chủ bút Tập san “Sử liệu thức”.
– Năm Bính Ngọ (1966), Ngài thành lập Ấn quán Phổ Ðà Sơn và làm Chủ nhiệm kiêm chủ bút Tạp chí An Lạc, Tuần báo An Lạc.
Dù bận nhiều Phật sự, nhưng Ngài cũng dành nhiều thời gian biên soạn và sáng tác những tác phẩm như sau:
– Ðại thừa Diệu pháp liên hoa giảng luận (2 tập)
– Phổ Môn giảng luận
– Phật pháp căn bản
– 25 bài giảng Phật pháp
– Quản trị học Phật giáo
– 36 pháp điều thân
– Giảng sư bảy đức tính ưu việt
– Truyện ngắn triết lý Phật giáo bằng tranh
– Thi phẩm Từng giọt ma ni
Là trưởng tử của Bồ–tát Quảng Ðức, được kế thế trú trì Tổ đình Quán Thế Âm, Ngài có trách nhiệm trùng tu, mở rộng ngôi Tổ đình thành nơi trang nghiêm thờ phụng Tam bảo và xây dựng cơ sở nhà Tăng, phòng ốc để chư Tăng có nơi tu học. Quá trình trùng tu đã thực hiện qua các giai đoạn:
Năm Giáp Thìn (1964): xây dựng dãy nhà Tăng; năm Bính Ngọ (1966): làm lễ đặt đá trùng tu Tổ đình;
Năm Kỷ Dậu (1969): khởi công xây cất ngôi chánh điện;
Năm Tân Hợi (1971): xây dựng dãy nhà lưu niệm Bồ–tát Quảng Ðức và phòng khánh tiết;
Năm Quý Hợi (1983): tạo tượng Bồ–tát Quán Thế Âm Thập Nhất Diện;
Năm Nhâm Thân (1992): xây bảo tháp Lửa Từ Bi và đúc đồng tượng Bồ–tát Quảng Ðức;
Năm Giáp Tuất (1994): xây bảo tháp chánh điện; năm Canh Thìn (2000): đúc đồng tượng Ðức Phật Thích–ca.
Năm Bính Dần (1986), Ngài khai sơn ngôi chùa Quảng Ðức tại Mađagui, huyện Ðạ Oai, tỉnh Lâm Ðồng;
Năm Mậu Dần (1998), Ngài xây dựng nhà từ đường Bồ–tát Quảng Ðức tại xã Tu Bông, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa;
Năm Canh Thìn (2000) trùng tu chùa Thiên Phước huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang (ngôi chùa thứ 30 của Bồ–tát Quảng Ðức khai sơn);
Năm Nhâm Ngọ (2002), Ngài chủ trương tái thiết chùa Phước Huệ Hàm Long tại xã Xuân Quang 2, Huyện Ðồng Xuân, tỉnh Phú Yên.
Mặc dù Phật sự bề bộn, Ngài vẫn dành thời gian tham gia công tác Giáo hội và đã giữ các chức vụ:
– Từ năm 1966 đến 1975, Ngài làm Chánh thư ký Ban đại diện GHPGVNTN tỉnh Gia Ðịnh.
– Từ năm 1967 đến 1974, Ngài là sáng lập viên Tổng đoàn Thanh niên Tăng ni Sài–gòn, Gia Ðịnh và giữ chức vụ Phó tổng đoàn.
– Từ năm 1972 đến 1975, Ngài là Tổng thư ký Tổng vụ Cư sĩ GHPGVNTN.
– Từ năm 1975 đến 1977, Ngài đảm nhiệm chức vụ Chánh đại diện GHPGVNTN tỉnh Gia Ðịnh.
– Từ năm 1977 đến 1981, trong giai đoạn khó khăn chung của Giáo hội, Ngài giữ chức vụ Tổng vụ trưởng Tổng vụ Cư sĩ GHPGVNTN.
Hòa thượng viên tịch tại Tổ đình Quán Thế Âm, Phú Nhuận lúc 21 giờ ngày 14 tháng Giêng năm Ðinh Hợi (02/03/2007), trụ thế 72 năm, 47 giới lạp. Tuy đã về cõi Phật, nhưng hình ảnh và đức độ của Ngài vẫn còn mãi trong lòng môn đồ pháp quyến, Tăng ni và Phật tử xa gần.
|