HT Nguyên Minh Đức Thiệu

Personal Information

Danh Tánh
HT Nguyên Minh Đức Thiệu - Ðời Thứ 44 Tông Lâm Tế - Ðời Thứ 10 Dòng Lâm Tế Liễu Quán
Gender ♂️ Male

Hành Trạng

Additional Info

Hòa Thượng Nguyên Minh Đức Thiệu (1911 - 1993)
Chùa Liên Trì

Hòa thượng húy Nguyên Minh, tự Đức Thiệu hiệu Hải Ấn, thế danh Bùi Xuân Quang tự pháp đời thứ 44 dòng thiền Lâm Tế Chánh Tôn. Hòa thượng sinh ngày 11 tháng 10 năm 1911 tại làng Nam Phổ Trung, xã Phú Thượng, huyện Phú Vang, Tỉnh Thừa Thiên Huế. Thân phụ là cụ Bùi Xuân Lai, thân mẫu là bà Nguyễn Thị Nghẹt. Hòa thượng là con trai út trong một gia đình gồm ba anh em trai, và một chị gái. Hòa thượng vốn được sinh ra trong một gia đình có truyền thống tin Phật lâu đời, hai anh trai của Hòa thượng điều xuất gia, và rất nổi tiếng, đó là Hòa thượng Thích Diệu Khai (Chùa Viên Thông) và Hòa thượng Thích Trí Toàn.
Năm lên bảy Ngài được thân mẫu, thân phụ cho phép xuất gia tại Chùa Viên Thông, và sau đó về làm đệ tử của Hòa thượng Trí Thủ lúc này ngài đang làm trú trì chùa Ba-la mật Thành phố Huế. Và sau đó được đức Hòa thượng Bổn sư cho phép tòng học tại Phật học đường Báo Quốc do Đại sư Trí Độ làm giám đốc.
Năm 1938 Ngài được thụ Sa di giới tại chùa Đại Bi, tỉnh Thanh Hóa. Sau hơn 15 năm tòng học tại Phật học đường Báo Quốc, Ngài được Hòa thượng Bổn sư cho phép chính thức thụ phong, và đắc giới Cụ túc tại Hộ Quốc Đại giới đàn tổ chức năm Kỷ Sửu (1949) tại tổ đình Báo Quốc, do đại lão Hòa thượng đệ nhất Tăng Thống Thích Tịnh Khiết làm đàn đầu.
Cuối năm 1951 Ngài được Tổng hội Phật giáo Trung phần bổ nhiệm làm trú trì chùa Viên Giác Cầu Đất, xã Xuân Trường , Thành phố Đà Lạt.
Năm 1954 sau ngày đình chiến, do yêu cầu Phật sự tại các tỉnh Cao Nguyên, Ngài được hội Phật giáo Trung phần bổ nhiệm trú trì chùa Khải Đoan, Thành phố Buôn Mê Thuột.
Đến năm 1957, Ngài nhận chức Chánh Đại diện Hội Phật giáo Tỉnh Pleiku và trú trì chùa Bửu Thắng.
Năm 1958 đến 1960 Ngài lên truyền bá chánh pháp tại huyện Cheo Reo, khai sơn chùa Bửu Minh, đồng thời Ngài cũng đứng ra xây dựng chùa Bửu Tịnh thuộc huyện Ayonpa và thành lập Phật giáo huyện này.
Đầu năm 1959 mặc dù bận nhiều Phật sự ở tại tỉnh Phú Bổn (nay thuộc tỉnh Gia Lai), Ngài vẫn đáp ứng nguyện vọng của Phật tử tỉnh Kom Tum đứng ra xây dựng và làm trú trì chùa Hồng Từ, chùa này cũng đã trở thành cơ sở Phật giáo tỉnh hội Kom Tum ngày nay.
Đến năm 1960 Giáo hội Phật giáo Trung phần bổ nhiệm Ngài làm trú trì và kiêm Hoằng Pháp tại chùa Tỉnh hội Phật giáo Phan Thiết; ở đây Ngài đã lãnh đạo phong trào đấu tranh bảo vệ tín ngưỡng năm 1963.
Sau năm 1964 Ngài được Hội Phật giáo điều về làm Chánh Đại diện Hội Phật giáo tỉnh Kom Tum.
Từ năm 1967 trở đi Ngài trở về hành đạo tại Thành phố Đà Lạt. Năm 1973, Ngài được đức Hòa thượng Bổn sư Thích Trí Thủ ấn chứng cho Ngài làm trưởng tử và ban cho bài kệ phú pháp:
Nguyên văn :
以 徳 紹 家 風
古 今 如 是 同
春 光 香 不 盡
海 印 體 含 容
Phiên Âm :
Dĩ Đức Thiệu gia phong
Cổ kim như thị đồng
Xuân quang hương bất tận
Hải ấn thể hàm dung.
Nguyên Hồng dịch
Lấy đức nối gia phong
Xưa nay đều như vậy
Xuân quang thơm cùng khắp
Thể hải ấn bao dung.
Năm 1974, thể theo nguyện vọng của bốn chúng đệ tử và lời thỉnh cầu của Hòa thượng Thích Minh Cảnh, Ngài đã về thường trú tại Tổ đình chùa Linh Quang Thành phố Đà Lạt.
Sau năm 1982 khi Ban Trị sự Tỉnh hội Phật giáo Lâm Đồng thành lập, Ngài đã được chư Tăng Ni và quý Phật tử cung thỉnh vào hàng Giáo phẩm Chứng minh, kiêm Đặc ủy Tăng sự thuộc Ban Trị sự Tỉnh hội Phật giáo Lâm Đồng.
Đầu năm 1988 Ngài nhận ngôi Chùa Liên Trì, trùng tu và đích thân làm trú trì cho đến ngày cuối cùng.
Đến ngày 11 tháng 10 năm Quý Dậu nhằm ngày (24-11-1993), Ngài đã an nhiên thị tịch vào giờ Thân tại Tổ đình Linh Quang Thành phố Đà Lạt, Ngài hưởng thọ 82 tuổi đời và 44 tuổi đạo.

Contact Information

Phone
Array
Address Array
This entry was posted in . Bookmark the permalink.