Additional Info
Hòa Thượng Như An - Giải Hòa - Huyền Quang
如 安 解 和 玄 光 (1920 - 2008): Tu viện Nguyên Thiều

Hòa thượng Huyền Quang
Hòa thượng thế danh Lê Ðình Nhàn, sinh ngày mồng 8 tháng 8 năm Canh Thân (19–9–1920) tại thôn Háo Ðức, xã Nhơn An, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Ðịnh. Thân phụ là cụ ông Lê Vỵ pháp danh Như Hương và thân mẫu là cụ bà Ngô Thị Tư pháp danh Như Tâm.
Năm Ất Hợi (1935), Ngài xuất gia với Hòa thượng Chơn Ðạo–Chí Tâm tại chùa Vĩnh Khánh. Cũng trong năm này, Ngài thọ Sa–di với pháp danh Như An, tự Giải Hòa nối pháp đời 41 dòng Lâm Tế, thế hệ thứ 8 pháp phái Chúc Thánh. Tháng 9 năm 1935 Hòa thượng Bổn sư viên tịch, nên Ngài đến cầu pháp tu học với Hòa thượng Trí Hải tại chùa Bích Liên.
Năm Ðinh Sửu (1937), với học hạnh kiêm ưu, tài trí vượt chúng nên Ngài được Hòa thượng Bích Liên và Hội đồng Thập sư đặc cách cho thọ Cụ túc giới tại trường hương Hưng Khánh do Hòa thượng Chơn Hương–Chí Bảo làm Ðàn đầu. Sau khi đắc giới, Ngài được Hòa thượng Trí Hải phú pháp hiệu Huyền Quang, pháp danh Ngọc Tân, pháp tự Tịnh Bạch, lúc bấy giờ Ngài vừa tròn 18 tuổi. Bắt đầu từ đó Ngài lấy pháp hiệu Thích Huyền Quang làm danh xưng phổ thông.
Năm 1938–1945, Ngài theo học tại Phật học đường Lưỡng Xuyên, tỉnh Trà Vinh. Sau khi học xong Ngài ra Huế học với Hòa thượng Trí Ðộ tại Phật học đường chùa Báo Quốc.
Tháng 8 năm 1945, Ngài tham gia kháng chiến chống Pháp và thành lập Phật giáo Cứu quốc Liên khu 5, giữ chức vụ Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký.
Năm 1951 vì chống đối chính sách can thiệp vào nội bộ Phật giáo của Việt Minh nên ngài đã bị bắt và an trí ở Phù Mỹ, rồi Sơn Tịnh, tỉnh Quãng Ngãi, cho đến ngày 20/7/1954 Ngài mới được thả tự do.
Từ năm 1955 đến 1957, Ngài được thỉnh cử làm Giám đốc Phật học đường Long Sơn, Nha Trang. Do sự phát triển, từ năm 1957, Phật học đường Long Sơn, Nha Trang và Phật học đường Báo Quốc, Huế hợp nhất thành Phật học viện Trung phần Hải Ðức, Nha Trang.
Năm Mậu Tuất (1958), Ngài cùng với chư Tăng Bình Ðịnh khai sơn Tu Viện Nguyên Thiều và thành lập Phật học viện Nguyên Thiều. Từ đó, Ngài giữ vai trò Giám viện cho đến cuối đời.
Năm Nhâm Dần (1962), Ngài làm phó Hội trưởng Hội Phật học Trung phần kiêm Hội trưởng Hội Phật giáo Thừa Thiên, Huế.
Năm Quý Mão (1963), Ngài tham gia cuộc vận động cho quyền bình đẳng tôn giáo dưới chế độ của Tổng thống Ngô Ðình Diệm và đòi hỏi yêu sách xóa bỏ Dụ số 10. Lúc bấy giờ Ủy ban Liên phái Bảo vệ Phật giáo ra đời, Ngài làm Tổng thư ký kiêm trưởng khối soạn tài liệu đấu tranh. Ngày 20 tháng 8, Ngài cùng bị bắt với chư tôn đức, mãi đến ngày 01/11/1963 mới được thả tự do.
Năm Giáp Thìn (1964), GHPGVNTN ra đời, Ngài được cung thỉnh vào chức vụ Tổng thư ký Viện hóa đạo kiêm Tổng vụ trưởng Tổng vụ Cư sĩ.
Năm Canh Tuất (1970), Ngài đại diện Viện hóa đạo tham dự Ðại hội các Tôn giáo Thế giới vì hòa bình lần thứ nhất tại Nhật Bản. Năm 1972, Ngài tham dự Ðại hội Hội đồng Tôn giáo Thế giới tại Geneve, Thụy Sỹ.
Ðại hội kỳ VI của GHPGVNTN, tổ chức vào ngày 27/12/1974, Ngài được cung thỉnh vào chức vụ Phó viện trưởng Viện hóa đạo.
Hòa thượng Huyền Quang là một trong những nhà lãnh đạo Phật giáo tài ba lỗi lạc của Phật giáo Việt Nam thời cận đại. Ðặc biệt, Ngài có trí nhớ hơn người và khả năng hành chánh siêu việt khiến các chính khách của bao chế độ phải nể phục. Là một người yêu chuộng hòa bình, luôn đấu tranh vì sự tự do bình đẳng của tôn giáo nên gần như suốt cả cuộc đời Ngài luôn bị tù tội cầm cố. Trong những tháng ngày bị an trí tại Quảng Ngãi, Hòa thượng đã có cơ duyên đọc hết bộ Ðại Tạng Kinh bằng Hán tạng. Ðây là một điều hy hữu mà không phải vị tôn đức nào cũng làm được. Ðồng thời, Ngài đã phiên dịch, biên soạn một số tác phẩm sau:
- Thiền môn chánh độ
- Sư tăng và thế nhân
- Nghi cúng chư Tổ và chư vị Cao tăng
- Ðạo tràng công văn tân soạn
- Thiếu thất lục môn
- Phật pháp hàm thụ
- Pháp sự khoa nghi
- Nghi thức cúng giao thừa
- Phật pháp áp dụng trong đời sống hằng ngày v.v...
Hòa thượng viên tịch vào ngày mồng 3 tháng 6 năm Mậu Tý (5/7/2008), tại phương trượng Tu viện Nguyên Thiều, tỉnh Bình Ðịnh, trụ thế 89 năm và 69 hạ lạp.
|