Additional Info
Hòa thượng Như Ðăng - Giải Chiếu - Trí Ðộ
如 燈 解 照 智 度 (1894 - 1979): Chùa Quán Sứ

Pháp sư Trí Ðộ
Hòa thượng thế danh Lê Kim Ba, sinh ngày 15 tháng 12 năm Giáp Ngọ (1894) tại thôn Phổ Trạch, xã Kỳ Sơn, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Ðịnh.
Lúc thiếu thời Ngài học chữ Nho và năm 18 tuổi học trường sư phạm. Nhờ có sở học rất uyên thâm, thêm lòng mến mộ đạo Phật, Ngài đi sâu vào nghiên cứu giáo lý và trở thành một vị học Phật lỗi lạc.
Năm Canh Thân (1920), Ngài bắt đầu giảng dạy Phật pháp tại Bình Ðịnh và là một trong những yếu nhân trong phong trào chấn hưng Phật giáo tại tỉnh nhà.
Năm Tân Mùi (1931), Ngài vào Sài–gòn, cùng với một số Cao tăng sáng lập và xuất bản tạp chí Từ Bi Âm.
Năm Ất Hợi (1935), Ngài được mời làm Ðốc giáo và giảng dạy tại trường An Nam Phật học tại chùa Báo Quốc, Huế.
Năm Canh Thìn (1940), Ngài trở vào Bình Ðịnh, xin xuất gia làm đệ tử của Hòa thượng Trí Hải chùa Bích Liên được ban pháp danh Như Ðăng, tự Giải Chiếu nối pháp đời 41 dòng Lâm Tế, thế hệ thứ 8 pháp phái Chúc Thánh. Sau đó Ngài theo thọ học với Hòa thượng Phước Huệ chùa Thập Tháp. Năm Tân Tỵ (1941), Ngài thọ tam đàn Cụ túc với Hòa thượng Ðắc Quang chùa Quốc Ân, Huế, đắc pháp hiệu Trí Ðộ đại sư.
Ngài tham gia phong trào Phật giáo Cứu quốc từ năm 1945, và thường cổ vũ Tăng ni Phật tử cùng lo việc cứu nước. Năm 1946, Hội Bắc kỳ Phật giáo mời Ngài ra mở trường tại chùa Quán Sứ, Hà Nội.
Năm Canh Dần (1950), Ngài được bầu làm Ủy viên Ủy ban Liên Việt tại Thanh Hóa và năm Quý Tỵ (1953) được chỉ định làm Ủy viên Ủy ban Việt Nam Bảo vệ Hòa bình Thế giới.
Năm Giáp Ngọ (1954), hòa bình lập lại ở miền Bắc, Ngài trở về trụ tại tùng lâm Quán Sứ, tích cực vận động Tăng ni Phật tử các tỉnh miền Bắc để thành lập một tổ chức Phật giáo Thống Nhất.
Tháng 3 năm Mậu Tuất (1958), cơ duyên đã hội đủ, Hội Phật giáo Thống nhất được thành lập, Ngài được tiến cử vào Ban lãnh đạo Trung ương và được bầu làm Hội trưởng từ đó và các kỳ đại hội về sau. Trong cương vị Hội trưởng, Ngài xin chính phủ mở nhiều lớp học ngắn hạn để đào tạo cấp tốc một số giảng sư nòng cốt cho các tỉnh, thành. Những lớp ngắn hạn này đều do Ngài trực tiếp tổ chức hướng dẫn và mời những Hòa thượng danh tiếng khác tham gia giảng dạy.
Năm 1968–1969, Ngài tổ chức lớp chuyên nghiên cứu Duy thức và Bách pháp minh môn luận. Ðến năm 1970, Ngài mở trường Tu học Phật pháp Trung ương tại chùa Quảng Bá, Hà Nội. Hai năm sau, Ngài mở trường Trung Tiểu học Phật pháp Trung ương (1972– 1974), rồi lớp chuyên về “Nhị khóa hiệp giải” (năm 1974–1975).
Năm 1976, Ngài về Bình Ðịnh thăm quê, thăm các chốn Tổ đình, nơi Ngài đã xuất gia đầu Phật, cùng những nơi Ngài đã từng khai tràng thuyết pháp năm nào.
Những năm cuối của thập kỷ 70, tuy tuổi cao, sức khỏe giảm sút, nhưng Ngài vẫn minh mẫn và luôn quan tâm đến việc hoằng pháp lợi sinh. Sau khóa lễ chiều ngày 24 tháng 10 năm 1979, tức ngày 4 tháng 11 năm Kỷ Mùi, Ngài gọi thị giả đưa lên chánh điện chùa Quán Sứ lễ Phật và đi quanh chùa thăm các cơ sở Phật sự cùng Tăng chúng trụ xứ, rồi trở về phòng ngồi đọc sách như thường lệ. Thế rồi Hòa thượng an nhiên thị tịch ngay tại tòa đọc, hưởng thọ 85 tuổi với 47 năm hoằng dương đạo pháp. Về trước tác, Ngài đã viết nhiều bài nghiên cứu có giá trị trong tạp chí Từ Bi Âm như:
- Luận về sóng thức (Duy thức)
- Pháp lạy hồng danh sám (Giáo lý)
Các kinh sách và tài liệu do Ngài dịch và viết rất nhiều, song vì đất nước chiến tranh, chưa có điều kiện xuất bản như:
- Bách pháp minh môn luận
- Nhân minh nhập chính lý luận
- Phật pháp khái luận
- Toát yếu lịch sử Phật giáo Việt Nam
- Bát–nhã tâm kinh
- Nhân minh khái yếu
- Nhân minh học giải thích
|