Additional Info
Hòa thượng Như Huệ - Giải Thức - Thiền Tâm
如 慧 解 識 禅 心 (1853 - 1905): Chùa Hội Phước
Hòa thượng Như Huệ sinh ngày 14 tháng 3 năm Quý Sửu (1853), niên hiệu Tự Ðức thứ 6 tại tỉnh Phú Yên. Ngài vốn có chí nguyện xuất gia cầu giải thoát nên đã đến chùa Phước Sơn, Ðồng Tròn xin làm đệ tử của tổ Chơn Chánh–Pháp Tạng – một bậc Cao tăng của tỉnh Phú Yên lúc bấy giờ.
Sau một thời gian tu học, Ngài được Bổn sư ban cho pháp danh Như Huệ, tự Giải Thức, nối pháp đời 41 dòng Lâm Tế, thế hệ thứ 8 pháp phái Chúc Thánh.
Sau đó, Ngài xin Bổn sư được vân du chiêm bái các danh lam và tham học với các vị Cao tăng thạc đức. Nhân duyên hội ngộ thời, Ngài vào Nha Trang gieo duyên hóa độ, được dân làng Phương Sài cung thỉnh Ngài trú trì chùa Hội Phước, Ngài hứa khả và đảm nhận trú trì tại đây. Từ đó, Ngài ra sức xiển dương Phật pháp và tu tạo lại chùa Hội Phước theo khả năng cho phép thời bấy giờ.
Mùa hạ năm Ất Mùi (1895), Ngài khắc lại bảng hiệu chùa “Hội Phước tự”.
Ngày mồng 8 tháng 4 năm Ðinh Dậu (1897), tại chùa Bảo Sơn, Tuy An, Phú Yên, Ngài được Hòa thượng Pháp Tạng đã ấn chứng phú pháp, ban cho đạo hiệu Thiền Tâm đại sư với bài kệ truyền pháp như sau:
諸 法 本 來 如 Chư pháp bổn lai như
如 如 如 是 法 Như như như thị pháp
去 來 生 滅 盡 Khứ lai sinh diệt tận
了 悟 即 菩 提 Liễu ngộ tức Bồ–đề.
Nghĩa là:
Các pháp vốn là chân
Như như là pháp đó
Qua lại sanh diệt hết
Hiểu rõ tức Bồ–đề
Năm Nhâm Dần (1902), niên hiệu Thành Thái thứ 14, ngài Như Huệ đã tái tạo quả Ðại hồng chung do ngài Ðạo An chú tạo năm 1822. Trong thời gian kế thừa chùa Hội Phước, Ngài tu bổ chùa chiền đã bị hoang phế qua bao tháng năm.
Ngày 23 tháng 2 năm Ất Tỵ (1905) niên hiệu Thành Thái thứ 17, sau 10 năm trú trì chùa Hội Phước (1895–1905) Ngài thâu thần viên tịch, trụ thế 52 năm. Môn đồ xây tháp Ngài trong khuôn viên chùa. Nay xá–lợi Ngài được tôn trí tại Liên Hoa bảo tháp.
|