Additional Info
Hòa thượng Như Thọ - Giải Thoát - Huyền Tân
如 壽 解 脫 玄 津 (1911 - 1979): Chùa Thiền Lâm

Hòa thượng Huyền Tân
Hòa thượng thế danh Lê Xuân Lộc, húy là Tâm, sinh ngày mồng 8 tháng 2 năm Tân Hợi (1911) tại Văn Sơn (Lánzon), tỉnh Phan Rang. Thân phụ là cụ ông Lê Văn Chí và thân mẫu là cụ bà Trần Thị Nhi.
Năm Giáp Tuất (1934), Ngài cắt dứt trần duyên xuất gia với Hòa thượng Thích Trí Thắng tại chùa Thiên Hưng, được Bổn sư cho pháp danh Như Thọ, tự Giải Thoát.
Sau một thời gian tu học, đến ngày 17 tháng 10 năm Ất Hợi (1935), Ngài được Bổn sư cho thọ Cụ túc giới tại Ðại giới đàn Tổ đình Trùng Khánh ở thôn Dư Khánh, Phan Rang do Hòa thượng Long Sơn làm Ðàn đầu truyền giới. Ngài là Thủ khoa Sa– di trong số 189 giới tử, được Bổn sư phú pháp hiệu Huyền Tân, nối pháp đời 41 tông Lâm Tế, thế hệ thứ 8 pháp phái Chúc Thánh.
Năm sau, Bính Tý (1936) Hòa thượng Bổn sư đưa Ngài về Tổ đình Thập Tháp, Bình Ðịnh theo học kinh luận với Quốc sư Phước Huệ. Sau đó, Quốc sư Phước Huệ ra giảng dạy kinh luật tại Phật học đường Tây Thiên, Huế, Ngài được đi theo làm thị giả và được cử làm Thủ chúng tại đây.
Năm Kỷ Mão (1939), chư sơn Bình Ðịnh cung thỉnh Quốc sư Phước Huệ về chủ giảng trường Hương tại Tổ đình Long Khánh, Quy Nhơn. Ngài lại theo Quốc sư về đây tu học và cũng được chư tôn đức Bình Ðịnh cử làm Thủ chúng tại trường Hương này.
Trường Hương mãn khóa, Ngài được Quốc sư Phước Huệ tuyên dương: “Tỳ–kheo Huyền Tân học hạnh kiêm ưu, hảo hạng Ðại học Phật pháp”.
Năm Canh Thìn (1940), lý hương hào lão và nhân dân làng Ðắc Nhơn làm giấy hiến cúng toàn bộ chùa Thiền Lâm lâu nay do làng quản trị cho Hòa thượng Trí Thắng. Do đó, Ngài được Bổn sư gọi về giao trách nhiệm trú trì ngôi phạm vũ này. Năm Tân Tỵ (1941), triều đình Huế ra sắc chỉ khâm ban Ðộ điệp trú trì cho Ngài và Sắc tứ biển ngạch Tổ đình Thiền Lâm. Từ đó Ngài thường xuyên mở lớp giảng dạy kinh luật cho Tăng ni và truyền dạy giáo lý Phật đà cho thiện tín quy tụ về chùa tu học.
Rằm tháng 7 năm Tân Mão (1951), Ngài thành lập Chi hội An Nam Phật học Ninh Thuận đặt tại thôn Ðắc Nhơn, đồng thời Ngài vận động thành lập Phật học đường Ninh Thuận. Cùng năm này Ngài đã thành lập Hội Phổ tương tế tại Tổ đình Thiền Lâm.
Năm Nhâm Thìn (1952), chư sơn và Hội An Nam Phật học tỉnh Khánh Hòa cung thỉnh Ngài giữ chức Giám Ðốc Phật học đường Nha Trang. Trong hai Ðại giới đàn năm 1957 và 1968 tại Phật học viện Trung phần ở chùa Hải Ðức, Nha Trang, Ngài đều được cung thỉnh vào hàng Thập sư.
Năm Ðinh Dậu (1957), Hội An Nam Phật học Ninh Thuận cung thỉnh Ngài trú trì chùa Sùng Ân. Từ năm 1959 đến năm 1961 Ngài đại trùng tu Tổ đình Thiền Lâm tạo thành một cảnh già–lam nguy nga bên đường quốc lộ số 11 đi Ðà Lạt.
Năm Quý Mão (1963) Phật giáo miền Nam gặp pháp nạn. Ngài là vị thượng thủ vững tay lái đưa con thuyền Phật giáo ở Ninh Thuận vượt qua mọi trở ngại, giữ vững lòng tin cho tín đồ.
Năm Giáp Thìn (1964), Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất được thành lập, Ngài lãnh trách nhiệm Chánh đại diện Tỉnh giáo hội Ninh Thuận khóa đầu tiên và làm Cố vấn đạo hạnh cho tổ chức Gia đình Phật tử ở đây. Từ năm 1970 đến năm 1975, Ngài giữ chức Giám viện Phật học viện Liễu Quán. Năm 1972, Ngài được tấn phong ngôi vị Hòa thượng.
Năm Giáp Dần (1974), Ngài được mời vào Hội đồng Giáo phẩm Trung ương Viện tăng thống GHPGVNTN. Bấy giờ Ngài đã 64 tuổi, thường bị đau yếu, nhất là bệnh suyễn. Tuy nhiên khi thấy trong người sức khỏe có phần khá hơn, Ngài liền giảng dạy kinh luận cho Tăng chúng, vì đây là công việc mà Ngài hoài bão suốt cuộc đời. Ðến ngày mồng 8 tháng 3 năm Kỷ Mùi (1979) Ngài viên tịch tại chùa Thiền Lâm, hưởng thọ 69 tuổi đời, 45 tuổi hạ.
Hòa thượng Thích Huyền Tân là một vị Cao tăng ở tỉnh Ninh Thuận. Ngài có kiến thức tinh thâm về kinh luật vì thiếu thời được theo học với thiền sư danh tiếng là Quốc sư Phước Huệ. Suốt đời, Ngài một lòng xây dựng cho ngôi nhà Phật giáo thêm bền vững.
|