Additional Info
Hòa thượng Phước Tịnh (1945 - 1975)
Chùa Vạn Phước - Huế
Hòa thượng Phước Tịnh tên thật là Hồ Văn Hào, sinh ngày 10.12.1945 tại làng Hương Cần, xã Hương Tồn, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Hòa thượng sinh ra trong một gia đình thuần kính Tam Bảo, gồm 4 anh em mà Hòa thượng là con thứ hai. Người em kế cũng xuất gia đó là Hòa thượng Thích Phước Toàn, hiện là Trụ trì chùa Vạn Đức tại Tp. Hồ Chí Minh. Thân phụ là cụ Hồ Văn Nhượng Pháp danh Nguyên Thân tự Tâm Cẩn, thân mẫu là cụ bà Trần Thị Lượng Pháp danh Nguyên Mãn tự Diệu Sung. Cả hai Cụ đều thọ Tam qui Ngũ giới và ăn chay trường. Thuở nhỏ Hòa thượng học trường làng.
Năm 12 tuổi (1954) theo cha mẹ lên Huế thăm chùa Vạn Phước và sau đó mến cảnh mến chùa và xin phép xuất gia tại đây. Được cha mẹ đồng ý và Hòa thượng đầu sư với Hòa thượng Tâm Hướng, Trụ trì chùa Vạn Phước ở Huế. Được cho nhập chúng hành điệu tại chùa. Trong thời gian ở chùa, Hòa thượng được cho học 4 cuốn Luật tiểu và những bộ kinh căn bản sơ cấp của Phật giáo. Chẳng bao lâu Hòa thượng đã học thuộc 4 quyển Luật tiểu: Tỳ ni, Oai nghi, Sa di, Cảnh sách và đã thuộc lòng hai thời công phu sáng chiều. Khi ở chùa Hòa thượng được Thầy thương bạn mến. Thấy tư chất thông minh ham học, được sự cho phép của Hòa thượng Bổn sư, Hòa thượng xin vào học trường Trung học Hàm Long ở chùa Báo Quốc Huế. Sau khi học hết Trung học đệ nhất cấp và vào học Đệ nhị cấp (cấp III), Hòa thượng đã thi đỗ Tú tài II ban D (Cổ ngữ) năm 1962. Song với chương trình ngoại điển, Hòa thượng cũng thường theo học chương trình nội điển ở Linh Quang, Báo Quốc, Linh Mụ, Từ Đàm và Tây Thiên do các Hòa thượng nổi tiếng trong sơn môn dạy dỗ như Hòa thượng Đôn Hậu, Hòa thượng Mật Hiển, Hòa thượng Thiện Siêu, Hòa thượng Linh Quang, Hòa thượng Đức Tâm, Hòa thượng Chơn Trí giảng dạy. Để có kinh nghiệm và thâu thập thêm kiến thức cho việc nghiên cứu kinh điển sau này, Hòa thượng đã ghi tên vào học tại trường Đại học Văn Khoa Huế. Sau 4 năm đèn sách, Hòa thượng đã đậu Cử nhân Văn chương tại Đại học này.
Hòa thượng đã được Bổn sư cho thọ Sa-di năm 1963 tại chùa Vạn Phước và Tỷ-kheo Bồ-tát năm 1965 tại Giới đàn Từ Hiếu, Huế. Sau khi Tốt nghiệp Cử nhân và thọ Cụ túc giới xong, Hòa thượng được Giáo hội cử vào ngành Hoằng pháp và Giáo dục.
Năm 1969, Ngài giữ chức vụ Giám học trường Bồ Đề Thành nội Huế, năm 1970 làm Hiệu trưởng trường Bồ Đề Hương Từ ở huyện Hương Thủy, ngoại ô Tp. Huế. Đồng thời cũng trong các năm này, Hòa thượng nhận làm Giáo thọ cho Phật học Viện Báo Quốc và Ni viện Diệu Đức, Huế.
Năm 1972, Hòa thượng xin phép Hòa thượng Bổn sư vào Sài gòn để ghi tên học Cao học tại Đại học Văn Khoa Sài Gòn và Cử nhân Phật học tại Đại học Vạn Hạnh. Trong thời gian này, Hòa thượng nhận lời làm Phụ khảo cho Phân khoa Văn khoa Đại học Vạn Hạnh. Trong 3 năm vừa học vừa làm việc liên tục nên sức khỏe có phần sa sút, nhưng ý chí vươn lên cầu tiến thì rất mạnh mẽ. Hằng ngày Hòa thượng đạp xe gần 5 cây số để đi học và đi làm việc từ chùa Vạn Phước về Vạn Hạnh và qua Đại học Văn Khoa Sài Gòn, mặc dù được xa nhưng không chút than vãn. Thì giờ rảnh Hòa thượng vào các Thư viện tìm tài liệu với ổ bánh mì đơn sơ. Nhờ vậy nên Hòa thượng đã tích lũy thêm nhiều kinh nghiệm cho việc nghiên cứu sau này, trong đó có luận văn Cao học như ảnh hưởng Phật giáo trong Văn chương bình dân. Hòa thượng cũng đã phụ giúp Giáo sư Tiến sĩ Lê Mạnh Thát nghiên cứu và dịch tác phẩm của ngài Chân Nguyên Thiền sư, một vị Đại sư nổi tiếng trong làng Văn học nước nhà thời cận đại.
Những tưởng ước mơ tươi sáng của Hòa thượng sẽ thành hiện thực, nhưng có ai ngờ cơn bệnh nan y ập đến cướp đi sinh mạng của vị tu sĩ chân tu đầy lòng nhiệt huyết và sự nghiệp nghiên cứu về Phật giáo đành bỏ dang dở. Để lại bao hồi bão ước mơ chưa thực hiện trọn vẹn. Chùa Vạn Phước tại Tp. Hồ Chí Minh và Tổ đình Vạn Phước Huế mất đi một tu sĩ trẻ chân tu đáng kính. Hòa thượng mất năm 1975 tại Sài gòn và nhục thân đưa về Tổ đình Vạn Phước Huế.
Tháp của Hòa thượng đã được lưu giữ tại chùa Sắc tứ Vạn Phước Huế.
|