HT Tâm Thật Thiện Châu

Personal Information

Danh Tánh
HT Tâm Thật Thiện Châu - Ðời Thứ 43 Tông Lâm Tế - Ðời Thứ 9 Dòng Lâm Tế Liễu Quán
Gender ♂️ Male

Hành Trạng

Additional Info

Hòa Thượng Tâm Thật Thiện Châu (1931 - 1998)
Thiền viện Trúc Lâm - Pháp

Hòa thượng húy Tâm Thật, hiệu Thiện Châu, thế danh Hồ Đắc Cư; sinh năm 1931 tại làng An Truyền, Phú Vang, Thừa Thiên, gọi Ni trưởng Diệu Không bằng cô cùng họ.
Năm 17 tuổi, Ngài xuất gia tại Đà Lạt, theo học với Giảng sư Thích Thanh Thủy.
Năm 1949, Ngài đến ở tại chùa Từ Đàm; do thiện duyên, Ngài được Đại lão Hòa thượng Thích Giác Nguyên, Trú trì Tổ đình Tây Thiên thế độ cho làm đệ tử. Ngài theo học tại Phật Học Viện Báo Quốc trong 5 năm, tốt nghiệp Trung đẳng Phật học tại trường này.
Ngoài chuyện đi học ở trường, thì Ngài còn học nội điển với cố Hòa thượng Thiện Siêu, và với Hòa thượng Trí Quang... Về ngoại điển, và cả ngoại ngữ như tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Ấn Độ, Ngài đều tự học hết.
Năm 1952, thọ Cụ túc giới, tham gia làm giảng sư đi diễn giảng suốt 17 tỉnh Trung phần Việt Nam. Sau đó vào Nam, được sự yêu mến và giúp đỡ của Cư sĩ Chánh Trí Mai Thọ Truyền và của Hòa thượng Thích Minh Châu, Ngài được học bổng của Chính phủ Ấn Độ để sang học ở Đại học Phật giáo Nalanda từ 1961 đến năm 1965; tại đây Ngài đã đậu bằng Pàlyacharya, sau đó đậu bằng M.A.
Năm 1966 và 1967, Ngài sang Anh quốc, nghiên cứu ở trường Đông Phương và Phi Châu học, thuộc Đại học Luân Đôn theo lời mời của Đại học này. Tiếp đó, Ngài qua Pháp, từ năm 1967 đến 1978, theo học ở Đại học Sorbonne Nouvelle, năm 1971 đậu cấp bằng Doctor of Philosophy (Ph.D.) với luận án Le traité des Trois Lois; năm 1978 đậu bằng Docteur d’État ès-lettres et Sciences humaines (D. Litt.) với luận án Les Sectes personnalistes du Boudhisme ancien tại trường này. Tự mình tìm lấy con đường đi của mình, tự mình đào tạo lấy mình. Luôn luôn giữ phong độ và tư cách của một Tăng sĩ Việt Nam truyền thống; nếu không có một ý chí mãnh liệt, một sự tinh cần bền bỉ, thì khó có thể thành đạt như Hòa thượng, cả Tu và Học như thế. Đi đâu hay ở đâu thì Hòa thượng vẫn không xao lãng nhiệm vụ hoằng Pháp của mình.
Năm 1980, Hòa thượng đã cùng với rất nhiều Phật tử trí thức Việt Nam ở Pháp - như cố giáo sư Hoàng Xuân Hãn, như giáo sư Võ Quang Yến chẳng hạn - lập Hội Phật Tử Việt Nam tại Pháp; với sự đóng góp công sức của Tăng Ni và Phật tử ở trong và ngoài nước, Ngài đã xây dựng Trúc Lâm Thiền Viện Paris tại Villebon Sur Yvette, trên một ngọn đồi gần thủ đô Paris, nước Pháp. Các vị trí thức trong Hội Phật tử nói trên và một vài vị khác như Tiến sĩ Cao Huy Thuần ở Pháp, Tiến sĩ Thái Thị Kim Lan ở Đức chẳng hạn, đều có sinh hoạt ở Thiền Viện Trúc Lâm Paris.
Năm 1981 Ngài được đề cử làm thành viên Hội đồng Trị sự Trung ương, và làm vị Đại diện cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam tại Hải ngoại.
Năm 1989, Ngài đảm nhiệm chức Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam; Phó Chủ tịch Hội đồng Phiên dịch và Ấn hành Đại Tạng Kinh Việt Nam.
Năm 1997, Hòa thượng đảm nhận chức vụ Phó Viện trưởng Học Viện Phật giáo Việt Nam tại Huế.
Tưởng ta cũng cần biết là trong thế kỷ thứ XX, hai triết gia Việt Nam có công trình nghiên cứu triết học xuất sắc được ghi tên vào Từ Điển các Triết gia thế giới, đó là Giáo sư Thạc sĩ Triết học Trần Đức Thảo về Hiện tượng luận của Edmund Husserl; và Hòa thượng Tiến sĩ Thích Thiện Châu về Triết học Phật giáo.
Tác phẩm của Ngài đã xuất bản: Đường về xứ Phật, hồi ký cùng viết với Hòa thượng Thích Minh Châu, Hòa thượng Thích Huyền Vi, xuất bản ở Sài gòn, 1964.
- Lá Bồ Đề, tuyển tập các bài giảng cho giới Phật tử trẻ, xuất bản ở Sài gòn, 1964 (?); Paris, 1972.
- The Ritual Book for Buddhists, Paris, 1968.- Le Traité Des Trois Lois (Tridhar-makasàstra), Luận án Ph.D. Sorbonne, Paris, 1971.
- La Littérature des Personnalistes (Pudgalavàdins) dans le Bouddhisme ancien. Luận án Litt. D. Sorbonne, Paris, 1978.
- Pháp Cú (Dhammapala), dịch từ văn Pali, Paris, 1980.-Dictionnaire des Philosophes (soạn chung), Paris, 1988.
- Tìm Đạo, Tp. Hồ Chí Minh, 1990.- The Literature of The Personnalists of Early Buddhism, (bản dịch tiếng Anh của Sara Boin-Webb), Tp. Hồ Chí Minh, 1997.
- The Philosophy of The Milindapanõhà,  Tp. Hồ Chí Minh, 2000.
Vào giờ Ngọ ngày Rằm tháng tám năm Mậu Dần (11 giờ 30 ngày 05-10-1998), Hòa thượng an nhiên thị tịch, trụ thế 67 năm với 46 hành Đạo.

---o0o---
1.
Cảm niệm

Thầy Thiện Châu lúc đầu xuất gia tại Đà Lạt, sau về ở Từ Đàm mấy năm. Trong thời gian đó, Thầy đã học nội điển với tôi và Hòa thượng Trí Quang. Còn ngoại điển Thầy tự học là chính chứ không học một trường lớp nhất định nào cả. Với một ý chí bền chắc, cần cù đạm bạc, không ồn ào, Thầy chỉ cốt làm thế nào học cho được mà thôi. Vì thế, một hôm cùng đi phố với tôi, giữa đường Thầy gặp một người Pháp, Thầy nói với tôi: “Thầy cho con đến nói chuyện với ông này một chút”. Thầy đến nói chuyện với ông ta một lát rồi trở lại. Sau tôi mới biết là Thầy học hỏi ông ta. Cho đến khi vào học ở Phật Học viện Hải Đức - Nha Trang, thầy Thiện Châu vẫn còn tiếp tục cách học như vậy. Ở đó, ngoài việc học nội điển, học tiếng Pháp, hằng ngày Thầy còn xuống phố, đến nhà một người Ấn để học tiếng Ấn Độ nữa. Tôi thấy Thầy học như vậy thì cũng khích lệ để Thầy học chứ không biết Thầy học tiếng Ấn để làm gì. Sau này tôi mới biết là Thầy học tiếng Pháp, tiếng Ấn là để đi du học.
Từ Nha Trang, Thầy vào Nam, thời gian đó tôi với Thầy cách biệt nhưng tôi cũng biết rằng, nhờ sự khéo léo, cần mẫn, có chí tu học nên được rất nhiều người thương mến, nhất là cụ Mai Thọ Truyền - Hội trưởng Hội Phật học Nam Việt. Cụ nhờ Hòa thượng Minh Châu, hồi đó đã học xong Tiến sĩ Phật học ở Nalanda, đã giới thiệu giúp đỡ cho Thầy vào học trường Đại học Phật giáo Nalanda ở Ấn Độ. Rồi sau đó Thầy qua Anh, qua Pháp để học. Hồi đó một nhà sư ra học nước ngoài không phải là một chuyện đơn giản và dễ dàng, mà phải khéo léo làm quen với người này, làm thân với người nọ mới có thể vào học được trong các trường như Đại học Nalanda, Đại học Đông Phương ở Anh, Đại học Sorbonne ở Pháp.
Thêm vào đó là sự thiếu thốn về vật chất: mỗi ngày chỉ một ổ bánh mì Thầy mang vào thư viện, ngày nọ sang ngày kia để nghiền ngẫm nghiên cứu kinh điển. Tự mình tìm lấy con đường đi của mình; tự mình đào tạo lấy mình, nếu không có một ý chí mãnh liệt, không có sự cần mẫn tinh tấn, Thầy khó có thể theo học nổi để thành đạt.
Sau giải phóng, Thầy về Việt Nam, tôi rất mừng. Tôi mừng vì thấy Thầy ở châu Âu rất lâu, Thầy vào học các trường đời cũng rất lâu như Nalanda ở Ấn Độ, Sorbonne ở Paris - Pháp. Nhưng cái tư cách, phong độ của một ông thầy tu Việt Nam ở nơi Thầy không hề thay đổi. Thầy không bị đồng hóa theo đời, không bị lai Tây, mà vẫn giữ được cái đạo thầy trò như bao giờ. Cho nên, trong khi Thầy bị bệnh, bị đau chân, đi lại khó khăn như vậy, mà mỗi lần gặp tôi hay Hòa thượng Trí Quang, Thầy vẫn nhất định đảnh lễ cho được. Chúng tôi ngăn cản thế nào cũng không chịu.
Đó cũng là một sức chịu đựng và một sự lễ độ rất quý hóa, mà cũng chính nhờ những đức tính ấy mà Thầy được nên thân. Do đó, dù Thầy có bằng cấp nọ, bằng cấp kia như Cao học, Tiến sĩ, thì sự tu hành và chí hướng hành đạo của Thầy vẫn không hề thay đổi.
Bởi thế, khi thành lập Học viện Phật giáo Việt Nam tại Huế, tôi để tên Thầy làm Phó Viện trưởng mà tôi không hề báo trước với Thầy, sau đó tôi mới cho Thầy biết. Thầy chỉ nói: “Thầy sai con làm chi, con làm nấy”. Tôi cũng nghĩ rằng, có Thầy vào đỡ một vai, Học viện Phật giáo Việt Nam sẽ có nhiều thuận duyên phát triển tốt. Thì chính trong buổi đầu với cái tâm nguyện của Thầy cùng với một số anh em đã xây dựng được Học viện Phật giáo Việt Nam tại Huế có những bước khởi đầu tốt đẹp.
Tôi cũng tin tưởng rằng, sự đóng góp của Thầy còn lâu dài, và Học viện Phật giáo Việt Nam tại Huế sẽ còn được nhiều sự giúp đỡ của Thầy từ trong nước cũng như ngoài nước. Nhưng không ngờ Thầy đã ra đi !!!
Sự ra đi của Thầy chẳng những là một sự mất mát lớn cho Phật giáo Việt Nam mà còn là một sự mất mát rất nhiều cho Phật giáo hải ngoại, vì chùa Trúc Lâm của Thầy ở Paris hiện giờ quy tụ một số lớn Phật tử trí thức danh tiếng, tu học dưới sự hướng dẫn của Thầy. Ngay như Giáo sư Hoàng Xuân Hãn, một danh nhân Việt Nam mà lúc sống thường hay lui tới chùa Trúc Lâm, lúc chết cũng di chúc được thiêu thân và đem hài cốt lên thờ tại chùa Trúc Lâm.
Mấy năm sau này, chùa Trúc Lâm thỉnh thoảng lại mở những cuộc hội thảo Phật giáo để quy tụ các Phật tử hải ngoại. Vừa rồi có một cuộc hội thảo, với đề tài : “Phật giáo hướng về tương lai”, mà ở Việt Nam Thầy Chơn Thiện, Đạo hữu Võ Đình Cường … có sang dự cuộc hội thảo đó.
Hội thảo ấy đang gây nhiều tiếng vang tốt và thầy Chơn Thiện cùng phái đoàn mới về Việt Nam được hai tuần thì nghe tin Thầy Thiện Châu đã đột ngột ra đi. Chúng tôi vô cùng bỡ ngỡ và thương tiếc.
Như vậy, sự ra đi của Thầy Thiện Châu là một sự hụt hẫng lớn lao cho Phật tử Việt Nam cũng như Phật tử hải ngoại.
Vì nhiệt tình, vì ý chí tu hành, vì phong độ ôn hòa, vì đạo hạnh của Thầy, cho nên sự viên tịch của Thầy đã để lại biết bao nhiêu tấm lòng thương tiếc.
Ngày hôm nay, trong giờ phút này, với niềm thương tiếc ấy, chúng ta hãy cầu nguyện cho Giác linh Thầy Cao đăng Phật quốc.
Nam-mô Bổn sư Thích Ca Mâu-ni Phật.
(Phát biểu của Hòa thượng Thiện Siêu, Giáo thọ của Hòa thượng Thiện Châu tại chùa Từ Đàm, sáng 28/8 năm Mậu Dần - 11.10.1998)

---o0o---
2
Pháp ngữ

Trước lúc hỏa thiêu nhục thân của Hòa thượng Thiện Châu
Hòa thượng Thiện Châu ! Xin ngài lắng nghe.
Giới hạnh của ngài thì trong sạch,
Tuệ tâm của ngày thì sáng tỏ,
Ngài nguyện làm sứ giả của Phật để làm công việc của Phật ở trong thế giới này.
Ngài sống và chết như vậy. Cái thân lồi người rất khó có; ngài đã đổi cái cũ, thay cái mới, để qua lại trong thế giới này. Thế giới này là “cái trường thi tuyển chọn người làm Phật”; ngài đã ở đây, và vẫn còn ở đây, để làm “người bạn không đợi mời gọi” cho nhân loại cho chúng sinh.
Trăng Linh Mụ, gió Túy Vân, cái quê hương đạo vị ấy của ngài, đã tạo ra ngài và đang chờ ngài.
Tỷ-kheo Trí-quang

---o0o---

3

Đọc Kinh với Thầy Thiện Châu
Gs Cao Huy Thuần

Trên ba mươi năm đọc kinh với thầy Thiện Châu, bây giờ đây, ở giờ phút này, tôi vẫn chỉ muốn đọc với thầy một bài kinh. Đọc với thầy, chứ không phải đọc cho thầy. Thầy vẫn còn ở đâu đấy, và thầy đang đọc kinh với tôi. Tôi đọc kinh với thầy từ khi thầy trò vừa đặt chân lên xứ lạ, làm bạn đồng hành.
Chúng tôi đi trên ba mươi năm, thấy chẳng đến đâu cả, nhưng càng đi càng thấy như gặp cảnh cũ, người xưa. Đất là đất lạ, nhưng càng đi càng quen, vì trên đất đó bỗng nảy ra chùa chiền. Trong tiếng chim chóc mà hôm qua còn lạ, hôm nay nghe như đã "thỏ thẻ rừng mai chim cúng trái”.
Tưởng chừng đi thêm vài bước nữa sẽ gặp ông Chu Mạnh Trinh đang mài mực viết thơ trong động Hương Sơn. Khi chúng tôi đặt chân đến đây, đất này là núi. Bây giờ trên núi đã mọc tháp, trong núi đã có động, và trong đá lạnh đã róc rách nước suối cam lồ Khi thầy khởi hành, đất này chưa quen Phật. Khi thầy từ giã, Phật đã trải tọa cụ trong nhà. Thầy đến, mà như thầy không đi. Khi đi, tưởng đã bước chân ra khỏi chùa. Khi đến, bỗng chân bước lại vào chùa cũ. Tôi đang muốn đọc lại bài kinh đó với thầy. Phật là người không đi không đến, bất khứ bất lai.
Vào khoảng 1966 - 1967, Hòa thượng Minh Châu lần đầu tiên ghé Pháp. Ba bốn thầy trò nói chuyện buổi sáng quanh chén trà. Từ khói trà bỗng nảy ra sáng kiến thành lập Đại học Vạn Hạnh với phân khoa Khoa học. Xã hội lần đầu tiên tạo dựng trên miền Nam cũ. Vạn Hạnh nảy mầm từ đây, trên đất lạ. Ba mươi năm sau, rễ Vạn Hạnh lan dài đến Trúc Lâm.
Năm đó, nghe tin Hòa thượng Minh Châu đến Pháp, một Phật tử trước đây ở Ấn Độ, nhân viên sứ quán của chính quyền miền Nam cũ, quen Hòa thượng trong thời gian người còn tu học tại đó, ân cần mời Hòa thượng về nhà thọ trai. Tôi hoan hỷ tháp tùng hưởng lộc. Thế nhưng thầy trò gặp chuyện bất ngờ. Trước khi cơm nước, vị thí chủ khả kính đưa hai thầy trò qua một phòng riêng, nơi đó, một bàn thờ Phật trang nghiêm đã được bài trí. Thí chủ cung thỉnh Hòa thượng về nhà để tụng kinh, làm lễ an vị Phật. Hương đèn không thiếu, chỉ thiếu kinh: Ai cũng biết, Hòa thượng Minh Châu rất giản dị trong nghi lễ. Nghi lễ của Hòa thượng là Thiền.
Nhưng Hòa thượng không giao động; người bảo tôi quỳ xuống, và hai thầy trò quỳ xuống trước bàn Phật, đọc bài kinh vỡ lòng mà ai cũng thuộc từ thuở Gia đình Phật tử:
Tham giận kiêu căng
Si mê lầm lạc
Ngày nay nhờ Phật
Biết sự lỗi lầm
Trong đời đọc kinh của tôi, đó là một trong những lần tôi gần Phật nhất. Đó là một trong những lần tôi thấy trang nghiêm thốt ra từ mỗi chữ, thấy mỗi chữ không phải đi ra từ miệng mà từ trong sâu thẳm của ý thức, rồi từ trong sâu thẳm đó bay vào sâu thẳm của khói hương. Hai thầy trò, một bài kinh, không chuông mõ, rồi yên lặng. Rất lâu. Trong yên lặng, tôi nghe bước đi của tôi, bước đi khởi từ tham, bước đi khởi từ giận, bước đi khởi từ kiêu căng, bước đi khởi từ si mê, cứ đi mỗi bước là mỗi bước tôi xa tôi, xa dần, "bước chân xa vắng dậm mòn lẻ loi". Rồi tôi nghe bước chân của tôi trở về, mỗi bước gần, bước chân trở về trên chữ "biết", "biết sự lỗi lầm", bước chân sạch, bước chân thơm, sau khi rửa bụi đường xa. Trong lặng yên, dường như tôi thấy tôi đến, không phải đến nơi nào khác, cách chỗ mình đi năm dặm mười dặm, mà đến chỗ vừa đi, chỗ hết tham khi vừa khởi ý hết tham. Bất khứ bất lai, Phật là người không đi không đến.
Thầy trò chúng tôi đã tu như vậy. Và chắc chắn thầy Thiện Châu không phải đang nằm đó. Bao nhiêu lần thầy nói thầy sẽ đến nơi chỗ thầy đi: thầy đến nơi bếp lửa Tây Thiên, làm lại chú tiểu, buổi sáng mùa đông ngồi đun lửa, châm trà hầu Hòa thượng. Trên ba mươi năm, thầy nhai sách nhai mãi cho ra cái Tiến sĩ. Bây giờ, thầy đang khoanh tay nhìn Hòa thượng Tây Thiên nhai trầu. Thầy quen nói đùa: chữ nghĩa không đáng giá cái bã trầu của Hòa thượng Tây Thiên. Thầy nhìn Hòa thượng nhai trầu, không nói gì hết. Rồi thầy bảo tôi đọc tiếp bài kinh:
Tham giận kiêu căng
Si mê lầm lạc
Ngày nay nhờ Phật
Biết sự lỗi lầm
Thành tâm sám hối
Thề tránh điều dữ
Nguyện làm việc lành
Tránh điều dữ nơi thân. Tránh điều dữ nơi miệng. Tránh điều dữ nơi ý. Tu với thầy Thiện Châu dễ quá, chữ nào cũng hiểu. Nhưng tu với thầy khó lắm. Tránh dữ, mấy ai tránh nổi ! Huống hồ đã tránh dữ, còn phải làm lành ! Trên ba mươi năm đi với thầy nhất là trong những năm đầu, khi thầy còn một mình một bóng, tôi không khỏi có ý nghĩ đang cùng đi vời thầy qua Tây Trúc. Thầy ngây thơ, tinh khiết, trước ma vẫn nghĩ là người. Trò kiêu ngạo với kính chiếu yêu, soi người thấy ma, quên bẵng ma với người chẳng phải là hai. Bao nhiêu lần, trò quẫy gót, từ giã thầy. Nhưng thầy có câu chú Kim cô đau đầu lắm:
Thề tránh điều dữ
Nguyện làm việc lành
Là tôi lại quay về với thầy ! Gần đây, thầy hay nhắc lại lúc hai thầy trò vừa khởi hành, lúc đó, tinh thần phơi phới, đi, mà cứ tưởng như đi lên trời ! Cứ thế thầy trò đi. Nhưng thầy đâu có đến Tây Trúc ! Thầy đến Tây Thiên ! Còn trò, ngơ ngơ ngáo ngáo, chẳng thấy mình đến đâu, chỉ thấy đang múc gáo nước rửa bụi ngã mạn dưới chân. Bất khứ bất lai, Phật là người không đi không đến.
Trên ba mươi năm hành đạo nước ngoài, thầy Thiện Châu để lại hai hình ảnh nơi lòng người Việt xứ này: hình ảnh một ông thầy tu dấn thân trong chiến tranh; hình ảnh một ông thầy tu hiền lành, bình dị. Hình ảnh trước là biến, hình ảnh sau là thường. Cũng như vận nước: bây giờ là thường, lúc đó là biến. Nhưng biến hay thường, đối với thầy Thiện Châu, chỉ là hai mặt của  cùng một suy luận đơn giản. Một, Phật giáo không phải là đạo của chiến tranh, cho nên giữa chiến tranh và hòa bình, Phật giáo dứt khoát lựa chọn hòa bình. Hai, Phật giáo sống chết với Việt Nam, chứ chưa bao giờ nhờ cậy ngoại bang, bởi vậy Phật giáo chống sự lệ thuộc ngoại bang. Chiến tranh càng kéo dài, sự lệ thuộc ngoại bang càng nặng, độc lập càng bị đe dọa. Mà độc lập của đất nước là hơi thở của Phật giáo.
Đơn giản có thế thôi. Nói lên những điều đó là bổn phận của ông thầy tu. Dù biến dù thường, ông thầy tu không thể có ngôn ngữ nào khác. Phật giáo quá dính chặt với Việt Nam, cho nên Việt Nam đau thì Phật giáo cũng đau, ông thầy tu cũng đau. Nếu ông nói lên cái đau của ông là là bởi vì đó là cái đau chung của dân tộc. Ông thầy tu, tựu trung, vẫn là ông thầy tu, không có dấn thân, cũng không có không dấn thân.
Thầy Thiện Châu là như vậy. Cho nên dù có ai không đồng ý với thầy vẫn không thấy mảy may xa cách thầy khi gặp thầy. Bởi vì ai cũng thấy nơi thầy tốt ra hình ảnh một ông thầy tu hiền lành, bình dị, hòa hiếu, nhẹ nhàng, một bậc chân tu. Thầy gần gũi với mọi người, không phân biệt khuynh hướng. Thầy gần gũi các cụ, các bác. Phải thấy các cụ các bác quý thầy như thế nào mới hiểu hơi ấm của đạo mà thầy truyền qua. Thầy gần gũi trí thức. Thầy gần gũi bình dân. Nhưng thầy gần gũi nhất là với các em bé. Hình như sự ngây thơ của thầy bắt gặp nơi sự trong trắng của trẻ em chân lý mà không lời lẽ nào nói được.
Hòa bình trở về, thầy Thiện Châu sung sướng được làm ông Nguyễn Công Trứ tuy thiếu con bò vàng:
Nhà nước yên thì sĩ được thong dong
Bây giờ sĩ mới tìm ông Bàn Thạch
Ông Bàn Thạch của thầy là các bậc minh sư hiện tại của Việt Nam, tinh túy của một nền văn hóa mà nếu không khéo gìn giữ thì mất hết tổ tông. Ai gần thầy trong mấy năm gần đây đều thấy thầy trở về quét lá đa mỗi sáng sớm bên chân hai vị đại sư, Hòa thượng Trí Quang, Hòa thượng Thiện Siêu, hai vầng nhật nguyệt soi sáng một thế kỷ sắp tàn. Thầy tưởng thầy đi, kỳ thực thầy không đi đâu cả. Thầy đang ở Tây Thiên. Thầy đang ở Từ Đàm. Thầy đang ở Già Lam. Bất khứ bất lai, Phật là người không đi không đến. Sáng thứ hai vừa qua, rằm tháng tám, ngày trăng tròn nhất trong năm, môn đồ mang thức ăn vào hầu thầy như thường lệ, thầy đã lặng lẽ giã từ. Vu Lan vừa qua, thầy còn leo một mình lên đỉnh Trúc Lâm. Không ai biết thầy mệt, tưởng thầy chỉ bị khí núi mùa đông làm yếu. Tám năm trước đây thầy bị xuất huyết não. Thầy thuốc nói thêm: mạch tim của thầy có thể vỡ lúc nào không hay. Bao giờ thì nó vỡ ? Trả lời: có thể năm năm, có thể một năm, có thể một tháng, có thể một ngày, có thể một giờ. Thầy bị cùng một lúc hai chứng đau quái ác: vừa não vừa tim. Ai chưa đau như thầy, xin đừng trách thầy có một thời gian tinh thần suy sụp. Hãy nhìn thầy tập đi, tập đứng, đi từng bước như đứa trẻ lên hai. Đứa trẻ chỉ tập đi trong vài tuần, vài ngày. Thầy tập đi trong tám năm..Và từng bước, từng bước tinh thần của thầy hồi phục.
Trong triết lý đạo Phật, có mười hạnh kỳ quái gọi là mười hạnh không cầu. Kỳ quái, bởi vì ngược đời. Người đời cầu gì, ta cầu ngược lại. Một trong mười hạnh không cầu đó, là đừng cầu không có bệnh tật. Tại sao? Bởi vì không gặp bệnh thì không thấm đạo. Muốn hiểu mười hạnh vô cầu này như là một kinh nghiệm thực tế cũng được. Mà muốn hiểu trên bình diện luận lý, triết lý, cũng tốt. Không đau thì không thấm đạo. Cho nên không có ai thấm đạo như thầy, bởi vì không mấy ai biết mình sống với một mạch tim có thể vỡ trong một phút, trong một giây. Thầy như người đi qua sông trên một chiếc cầu xây bằng lá cỏ. Và, thầy tập đi qua cầu như vầy trong tám năm.
Bệnh của thầy khiến tôi nghĩ đến một câu chuyện thiền kinh dị. Chuyện như thế này. Một người bị cọp đuổi. Cọp rượt anh đến tận một triền núi. Anh nhảy bừa xuống triền núi để thoát thân, vớ được một cành nho. Ngước mắt nhìn lên, anh thấy con cọp đi lui, đi tới, tìm cách leo xuống. Cúi mặt nhìn xuống, anh thấy một con cọp khác đang nhe răng chờ anh rơi xuống đáy khe. Nhìn qua bên cạnh, hai con chuột đang gặm gần nhẵn cành nho mỏng manh anh đang bám. Ngay lúc đó, trước mắt anh hiện ra một trái dâu mọng chín, trái dâu đỏ ong mà ngày thường anh vẫn thèm ăn. Một tay anh bám cành nho, một tay anh hái trái dâu bỏ vào miệng. Ngon lành.
Câu chuyện chỉ có thế. Tôi kể cho con tôi nghe, con tôi bảo vô duyên. Tôi nói: người đó đã làm hết sức mình để thoát thân, chứ không phải buông xuôi cho số phận. Nhưng sự tình là như vậy, và trước sự tình đó, đâu có thể có thái độ nào khác hơn là hai thái độ sau đây: hoặc là bỏ phí cái giây phút cuối cùng của cuộc đời, hoặc là trọn vẹn thưởng thức nó. Mà cái giây phút nào chẳng có thể là giây phút cuối cùng ? Có cái thời gian nào khác để chúng ta sống đâu, ngoài cái giây phút hiện tại này đây ?
Mạng sống của thầy Thiện Châu không nhải treo trên một cành nho, mà treo trên một mạch tim mỏng manh như sợi tơ. Và thầy đã làm gì ? Thầy quét lá đa, rồi thầy đi lui, đi tới bưng từng viên đất để xây lại chùa Khoai, làm Học viện cho rạng đông của một thế kỷ mới.
Con tôi thắc mắc lắm, cứ muốn biết câu chuyện kết thúc như thế nào. Thì như thế nào nữa ! Thầy Thiện Châu bị cọp ăn thịt! Hiển nhiên là như thế và không thể khác được. Nhưng có ai trong nhân loại vô cùng vô tận này chẳng có một con cọp đang chờ dưới khe ? Vấn đề là trái dâu đang mọng đỏ trước mắt, trái dâu đẹp đẽ vô ngần, mầu nhiệm vô ngần của giây phút hiện tại. Một tay thầy Thiện Châu bám cành nho, một tay thầy bưng từng viên đất để xây chùa Khoai, thắp mặt trời cho ngày đang sáng. Thầy đi lui đi tới đi qua đi về; thầy đi trên mũi kim của giây phút hiện tại. Nhưng đi trên mũi kim thì làm thế nào mà đi ? Làm thế nào mà đến? Trên mũi kim, đi và đến có khác gì nhau?
Thưa thầy, thầy Thiện Châu kính mến của chúng tôi, bất khứ bất lai, Phật là người không đi không đến.

Contact Information

Phone
Array
Address Array
This entry was posted in . Bookmark the permalink.