HT Thanh Ninh Tâm Truyền

Personal Information

Danh Tánh
HT Thanh Ninh Tâm Truyền - Ðời Thứ 41 Tông Lâm Tế - Ðời Thứ 7 Dòng Lâm Tế Liễu Quán
Gender ♂️ Male

Hành Trạng

Additional Info

Hòa thượng Thanh Ninh Tâm Truyền (1832 - 1911)
Chùa Báo Quốc - Huế

Ngài người họ Đỗ, thế danh là Huệ Vân, quê quán thôn Tiền Khê, tổng Bích Khê, tỉnh Quảng Trị, sinh ngày 13-01 Nhâm Thìn, Minh Mạng thứ 13 (1832). Lúc nhỏ theo Nho học, năm 15 tuổi, nhân đến chùa Diệu Đế ăn chay thấy ngon nên ưa xuất gia. Năm Nhâm Tý, Tự Đức thứ 5 (1852) lúc 20 tuổi, đến chùa Diệu Đế xin thế độ với Ngài Diệu Giác, được Pháp danh là Thanh Ninh, tự Huệ Vân, hiệu Tâm Truyền; làm Tăng chúng chùa Báo Quốc.
Năm Đinh Tỵ, Tự Đức thứ 10 (1857), khi Hòa thượng Tăng Cang Nhứt Chơn viên tịch, Bổn sư Ngài được sắc chỉ bổ nhiệm sang trú trì chùa Báo Quốc vào tháng Chạp, Ngài được cử quản chúng trong khoảng thời gian Bổn sư tìm người thay thế ở chùa Diệu Đế. Từ đây cho đến năm 1894 là giai đoạn bận rộn nhất của Hòa thượng Bổn sư Ngài; liên tiếp lo trùng tu chùa Báo Quốc, khai mở các giới đàn để chọn Tăng tài, vừa là giai đoạn triều đình Huế có nhiều biến động, thực dân Pháp đã can thiệp vào nội tình Việt Nam.
Năm 1894, Hòa thượng Diệu Giác khai Đại giới đàn, phái Ngài vào Bình Định thỉnh Hòa thượng Từ Mẫn chùa Tịnh Lâm ở Phù Cát làm Đệ nhất Tôn chứng, Hòa thượng Hải Thiệu làm yết ma, Hòa thượng Linh Cơ làm giáo thọ. Trong giới đàn, Ngài vừa là chủ sự công việc, vừa là người thọ giới. Ngài được Bổn sư phú Pháp với bài kệ:
明 來 廣 朗 會 龍 吟
法 號 慧 雲 付 汝 今
法 法 無 法 皆 是 法
太 焰 傳 燈 更 可 尋
Phiên âm:
Minh lai quảng lãng hội long ngâm
Pháp hiệu Huệ Vân phú nhữ kim
Pháp pháp vô pháp giai thị pháp
Thái diệm truyền đăng cánh khả tầm.
Mênh mông sáng rạng hội rồng ngâm,
Pháp hiệu truyền thừa trao Huệ Vân.
Các pháp, vô pháp đều là pháp
Mỗi lửa châm đèn, cũng dễ tìm
(Nguyễn Lê Châu dịch)
Năm sau, Hòa thượng Diệu Giác tịch. Chư sơn suy cử Ngài làm Trú trì chùa Diệu Đế; đến năm Thành Thái thứ 8 (1896), bảo cử Ngài kiêm trú trì Báo Quốc. Năm 1898, Ngài đứng ra trùng tu chùa Diệu Đế; đến mùa đông, vào tháng Chạp năm này lại sửa chùa Viên Thông.
Năm Thành Thái thứ 11 (1899), Ngài cố xin nghỉ chức Tăng cang chùa Diệu Đế không được nên phải nhận. Tháng 7 cùng năm, Ngài cho trùng tu chùa Viên Giác (vị trí tọa lạc phía sau chùa Báo Quốc) do Tổ Liễu Quán khai sơn.
Năm Canh Tý, Thành Thái thứ 12 (1900), Ngài lại cho đại trùng tu chùa Huệ Lâm ở thôn Bình An, tọa lạc phía hữu, gần chùa Vạn Phước (nay không còn).
Ngài là người cương trực, khiêm tốn, ưa bố thí. Thường ngày trì tụng nhị thời khóa tụng, thường tụng kinh Di-đà, Phổ Môn, mỗi lần ba biến hoặc sáu biến, không kể trời nóng hay lạnh, cứ như vậy trong sáu năm, cho đến năm 68 tuổi mà gân cốt vẫn tráng kiện.
Năm Tân Sửu, Thành Thái thứ 13 (1901), Ngài tổ chức xây dựng “Bích Khê Từ Đường” để thờ Hòa thượng Bổn sư Diệu Giác. Đó cũng là công việc cuối cùng mang ý nghĩa hết sức to lớn trong đời Ngài: báo đáp thâm ân. Sau đó tất cả đều dừng lại theo nhịp độ thu dần của tuổi già.
Năm Tân Hợi, Duy Tân thứ 5 (1911), vào mùa hạ tháng 6 nhuận, Ngài thị tịch vào giờ Tý ngày 21, thọ 79 tuổi đời và 49 hạ lạp. Ngài thuộc đời 41 dòng Lâm Tế. Các đệ tử xây tháp Ngài tôn trí bên hữu chùa Diệu Đế.

Contact Information

Phone
Array
Address Array
This entry was posted in . Bookmark the permalink.