Additional Info
Hòa thượng Thị Chí - Hành Thiện - Phước Hộ
是 志 行 善 福 祜 (1904 - 1985): Chùa Từ Quang
Hòa thượng Thích Phước Hộ, thế danh Huỳnh Văn Nghĩa, sinh ngày 24 tháng 7 năm Giáp Thìn (1904) tại làng Triều Sơn, xã Xuân Thọ, huyện Ðồng Xuân, tỉnh Phú Yên. Thân phụ là cụ ông Huỳnh Trung và thân mẫu là cụ bà Trần Thị Nho.

Hòa thượng Phước Hộ
Năm Mậu Tý (1912), Ngài được song thân cho lên chùa Từ Giác trong địa phương, học chữ Nho với Ðại sư Thiện Hạnh. Năm Ðinh Tỵ (1917), Ngài được phép xuất gia tại chùa Sắc tứ Phước Sơn với Hòa thượng Như Ðắc–Thiền Phương, được Bổn sư ban cho pháp danh Thị Chí, tự Hành Thiện.
Năm Nhâm Tuất (1922), chùa Linh Sơn (Hòn Chồng) thuộc thôn Ngân Sơn, xã An Thạch, huyện Tuy An trong tỉnh mở Ðại giới đàn, Ngài được Bổn sư cho đến đó thọ Cụ túc giới. Ðại giới đàn này do Hòa thượng Hoằng Hóa làm Ðàn đầu. Sau khi đắc giới, Ngài được Bổn sư phú pháp hiệu Phước Hộ, nối pháp đời 42 dòng Lâm Tế, thế hệ thứ 9 pháp phái Chúc Thánh.
Năm Nhâm Thân (1932), Ngài được Bổn sư cho ra Huế tham học với Hòa thượng Giác Viên ở chùa Hồng Khê. Sau đó, Ngài tiếp tục học với Quốc sư Phước Huệ tại chùa Thập Tháp, Bình Ðịnh.
Năm Giáp Tuất (1934), chư sơn tỉnh Khánh Hòa thỉnh Ngài vào giữ chức Giáo thọ giới đàn tại chùa Thiên Bảo, huyện Ninh Hòa. Ðến năm Ðinh Sửu (1937), Ngài nhận lời mời của Hòa thượng Huệ Ðạo ở Phan Rang, vào giảng dạy Phật pháp cho Tăng sinh tại Phật học đường gia giáo chùa Tây Thiên thuộc tỉnh Ninh Thuận.
Năm Mậu Dần (1938), Ngài trở về Phú Yên, hợp tác với Chư sơn, mở Phật học đường tại chùa Bảo Lâm, thôn Liên Trì, nay thuộc xã Bình Kiến, thị xã Tuy Hòa, Ngài kiêm luôn chức Giáo thọ.
Năm Tân Tỵ (1941), Ngài nhận lời mời của Tổng trị sự Hội Việt Nam Phật học Huế, ra làm giáo học lớp Sơ đẳng Phật học đường chùa Báo Quốc do Hòa thượng Thích Trí Thủ làm Giám đốc. Năm Nhâm Ngọ (1942), Ngài trở về Phú Yên, giúp việc cho Hội Phật học tỉnh nhà, thường xuyên giảng dạy giáo lý cho Tăng tín đồ Phật tử.
Năm Ất Dậu (1945), Ngài chính thức trú trì chùa Từ Quang, Ban trị sự Hội Phật học tỉnh Phú Yên cung thỉnh Ngài giữ chức Chánh Hội trưởng Hội Phật học tỉnh. Năm Ðinh Hợi (1947), Ngài trùng tu khang trang lại chùa Từ Quang.
Năm Nhâm Thìn (1952) chư sơn tỉnh Bình Ðịnh mở Ðại giới đàn tại chùa Thiên Bình, cung thỉnh Ngài làm Yết–ma A–xà–lê.
Trong pháp nạn năm 1963, Ngài là cây đại thụ chống đỡ ngôi nhà Phật giáo trước phong ba bão táp và che chở cho hàng Tăng ni, Phật tử toàn tỉnh giữ vững niềm tin.
Năm Giáp Thìn (1964), GHPGVNTN thành lập, Tăng tín đồ cung thỉnh Ngài giữ chức vụ Chánh đại diện GHPGVNTN tỉnh Phú Yên liên tiếp trong ba nhiệm kỳ từ năm 1964 đến năm 1970. Trong thời gian này, Ngài trùng tu lại ngôi Tổ đình Bảo Tịnh, nơi đặt trụ sở của Tỉnh giáo hội.
Năm Mậu Thân (1968), Ðại giới đàn Phước Huệ được tổ chức tại Phật học viện Nha Trang, Ngài được Hòa thượng Tăng thống Thích Tịnh Khiết mời thay Hòa thượng làm Ðàn đầu. Ðến tháng 9, GHPGVNTN tỉnh Bình Ðịnh mời Ngài làm Ðàn đầu Hòa thượng tại giới đàn Vĩnh Gia tổ chức tại chùa Long Khánh, Quy Nhơn.
Năm Tân Hợi (1971), Ngài được cung thỉnh vào Hội đồng Trưởng lão Viện tăng thống GHPGVNTN kiêm luôn chức Giám luật viện này.
Năm Quý Sửu (1973) Hòa thượng đàn chủ Thích Trí Thủ lại cung thỉnh Ngài làm Ðàn đầu Hòa thượng Ðại giới đàn Phước Huệ tại Phật học viện Nha Trang.
Năm Tân Dậu (1981), GHPGVN được thành lập, Ngài được cung thỉnh làm thành viên Hội đồng Chứng minh T.WGHPGVN.
Năm Nhâm Tuất (1982), Ðại hội đại biểu Phật giáo tỉnh Phú Khánh (lúc đó hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa còn hợp nhất) cũng cung thỉnh Ngài làm Chứng minh sư cho Tỉnh hội.
Ngày 11 tháng giêng năm Ất Sửu (31–1–1985), Hòa thượng thị tịch tại chùa Bảo Tịnh, hưởng thọ 82 tuổi, 63 hạ.
|