HT Thị Khai Ðỗng Minh

Personal Information

Danh Tánh
HT Thị Khai Ðỗng Minh - Ðời Thứ 42 Tông Lâm Tế - Ðời Thứ 9 Dòng Lâm Tế Chúc Thánh
Gender ♂️ Male

Hành Trạng

Additional Info

Hòa thượng Thị Khai - Hạnh Huệ - Ðỗng Minh
是 開 行 慧 洞 明  (1927 - 2005): Chùa Long Sơn


Hòa thượng Ðỗng Minh

Hòa thượng thế danh Ðỗ Châu Lân, sinh năm Ðinh Mão (1927) tại thôn Quan Quang, xã Nhơn Khánh, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Ðịnh. Thân phụ là cụ ông Ðỗ Hoạch và thân mẫu là cụ bà Trần Thị Tú.
Vốn có sẵn hạt giống Bồ–đề, túc duyên Phật pháp, năm 13 tuổi Ngài xuất gia với Ðại sư Thích Chơn Quang tại chùa Khánh Vân, thôn Văn Quang, xã Phước Quang, tỉnh Bình Ðịnh. Sau đó, Ngài được Hòa thượng trú trì chùa Thiên Hưng đưa vào Phan Rang và trao cho Hòa thượng Huyền Tân chùa Thiền Lâm làm đệ tử với pháp danh Thị Khai, tự Hạnh Huệ, hiệu là Ðỗng Minh, thuộc dòng Lâm Tế đời thứ 42 thế hệ thứ 9 truyền thừa theo bài kệ của Tổ sư Minh Hải–Pháp Bảo.
Năm Quý Mùi (1943), Ngài thọ Sa–di tại giới đàn Thiên Ðức, tỉnh Bình Ðịnh, do Quốc sư Phước Huệ chứng minh.
Vào ngày vía Di Ðà năm Giáp Thân (1944), Ngài được Bổn sư trao Pháp quyển với bài kệ phú pháp như sau:
本 來 有 爲 法  Bổn lai hữu vi pháp
生 滅 速 無 常  Sanh diệt tốc vô thường
法 性 無 生 滅  Sanh diệt tốc vơ thường
付 汝 觀 而 修  Phú nhữ quán nhi tu
Nghĩa là:
Pháp hữu vi xưa nay
Chóng sanh diệt vô thường
Pháp tánh không sanh diệt
Ông quán, tu như thế.
Năm Bính Tuất (1946), tuy mới có 19 tuổi, nhưng thiên tư đỉnh ngộ khác thường nên Ngài được Bổn sư và Hội đồng Thập sư đặc cách cho thọ Cụ túc tại giới đàn chùa Thiên Bình tỉnh Bình Ðịnh do Hòa thượng Huệ Chiếu làm Ðàn đầu.
Năm Kỷ Sửu (1949), Ngài được Bổn sư cử làm Thủ tọa chùa Thiền Lâm.
Năm Canh Dần (1950), lên 23 tuổi, Ngài được Bổn sư đưa ra tu học tại Tăng học đường Nha Trang, hay gọi là Tăng học đường Nam phần Trung Việt, đặt tại trường Bồ–đề Nha Trang, do Hòa thượng Thích Thiện Minh làm Giám đốc.
Năm Ất Mùi (1955), sau mùa an cư, Ngài xin ra Huế tham học với Hòa thượng Thích Ðôn Hậu, Thích Thiện Siêu, Thích Trí Quang để hoàn tất chương trình Ðại học Phật giáo.
Năm Ðinh Dậu (1957), sau khi hoàn tất chương trình Ðại học Phật giáo, từ Huế trở về Nha Trang, Ngài đã được Tổng hội Phật giáo Trung phần phân công nghiên cứu, tổ chức và thành lập hãng vị trai lá Bồ–đề, để làm cơ sở kinh tế tự túc cho việc đào tạo Tăng tài.
Năm Quý Mão (1963), Ngài là thành viên trong Ủy ban Bảo vệ Phật giáo tại Nha Trang, cùng với Tăng ni và Phật tử vận động tranh đấu, chống lại chính sách kỳ thị và đàn áp tôn giáo của chính quyền Ngô Ðình Diệm.
Năm Ðinh Mùi (1967), GHPGVNTN mời Ngài giữ chức Chánh đại diện miền Khuông Việt, bao gồm các tỉnh Cao nguyên Trung phần.
Năm Mậu Thân (1968), Ngài giữ chức Vụ trưởng Phật học vụ, thuộc Tổng vụ giáo dục GHPGVNTN, với trách nhiệm điều phối và chăm sóc 22 Phật học viện các cấp trong toàn miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ.
Năm Canh Tuất (1970), Phật học viện Trung phần mở lớp chuyên khoa Phật học, Ngài được mời giữ chức Giám học. Ngày 19 tháng 9 năm Quý Sửu (1973), Ngài cùng trưởng lão Hòa thượng Thích Trí Thủ mở Ðại giới đàn Phước Huệ cho Tăng ni từ Quảng Trị trở vào nam thọ giới. Ðàn giới này đã cung thỉnh Ðại lão Hòa thượng Thích Phước Hộ làm Ðàn đầu.
Năm Giáp Dần (1974), Viện Cao đẳng Phật học Hải Ðức Nha Trang thành lập, do Hòa thượng Thích Thiện Siêu làm Viện trưởng, Ngài giữ chức Phó Viện trưởng điều hành.
Ðầu năm Mậu Ngọ (1978), Ngài đi Sài–gòn dự lễ tang Hòa thượng Thích Thiện Hòa – Phó Tăng thống GHPGVNTN, trên đường trở về lại Nha Trang, đã bị chính quyền chận bắt. Mười tám tháng bị giam cầm đủ để thử sức nhẫn nhục của Ngài và cũng là thời gian để Ngài tu dưỡng. Bộ Tỳ–ni Nhật Dụng được dịch ra văn vần trong thời gian này.
Năm 1982 và 1983, Ngài an cư và dạy Luật tại Tu viện Quảng Hương Già–lam và Phật học Vạn Hạnh. Từ năm 1983, Ngài được mời làm thành viên Ban giáo dục Tăng ni Trung ương trong suốt 4 nhiệm kỳ.
Năm Canh Ngọ (1990), trường Cơ bản Phật học Khánh Hòa thành lập, Ngài được cung thỉnh giữ chức Giáo thọ trưởng và giảng dạy cho trường.
Năm Tân Mùi (1991), Phân viện nghiên cứu Phật học Hà Nội mời Ngài vào thành viên Hội đồng phiên dịch Luật tạng Phật giáo Việt Nam.
Từ năm 1993 đến năm 2001, Ngài được cung thỉnh làm Tuyên luật sư cho các Ðại giới đàn: Trí Thủ I (1993), Trí Thủ II (1997) và Trí Thủ III (2001), đều được tổ chức tại chùa Long Sơn, Nha Trang, Khánh Hòa.
Năm Ất Hợi (1995), được sự tài trợ của Hòa thượng Thích Tịnh Hạnh ở Ðài Loan, Ngài tổ chức đào tạo một lớp phiên dịch cho Tăng ni; sau đó tiếp tục hướng dẫn Tăng ni và cư sĩ dịch được nhiều bộ kinh trong tạng Ðại Chính Tân Tu. Ngài tự đảm nhiệm công việc Chứng nghĩa cho tất cả các bản dịch này.
Năm Bính Tý (1996), Ngài được cung thỉnh làm Tuyên luật sư cho Ðại giới đàn Thiện Hòa tại Ðại Tòng Lâm, Bà Rịa–Vũng Tàu.
Năm Ðinh Sửu (1997), Ngài được GHPGVN tấn phong Hòa thượng và suy tôn vào Hội đồng chứng minh T.WGHPGVN.
Năm Tân Tỵ (2001), trong Ðại hội nhiệm kỳ III, Ban trị sự Tỉnh hội Phật giáo Khánh Hòa cung thỉnh Ngài làm Chứng minh và Cố vấn cho Tỉnh hội, đồng thời thỉnh Ngài làm Cố vấn cho Ban tăng sự và Ban giáo dục Tăng ni của Tỉnh hội.
Năm Nhâm Ngọ (2002), được sự hỗ trợ nhiệt thành của các pháp hữu (Cựu học tăng Phật học viện Hải Ðức, Nha Trang) ở hải ngoại, Ngài liền vận động thành lập Ban phiên dịch Pháp Tạng Phật giáo Việt Nam; chính Ngài giữ trách nhiệm Trưởng ban, hướng dẫn Tăng ni và Cư sĩ phiên dịch Kinh, Luật, Luận từ Hán ngữ và các ngoại ngữ khác sang Việt ngữ. Từ đó đến nay (năm 2005), nhiều kinh sách đã được phiên dịch và lưu hành rộng rãi cả ở trong nước lẫn ngoài nước.
Năm Quý Mùi (2003), Ngài được Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam mời giữ chức Phó viện trưởng và Cố vấn chỉ đạo Ban phiên dịch Hán tạng.
Với bản hoài sách tấn Tăng ni nghiêm trì giới luật, thể hiện đạo phong trưởng tử Như Lai, phụng sự đạo pháp, nên từ lâu Ngài đã dụng công nghiên cứu Luật tạng. Trong khoảng hơn 10 năm, từ 1978, Ngài đã phiên dịch toàn bộ hệ thống Luật tạng trong bộ Ðại chính tân tu Ðại tạng kinh; dịch phẩm của ngài gồm có các bộ:
– Tứ phần luật; Di–sa–tắc bộ Hòa–hê Ngũ phần luật; Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ Tỳ–nại–da; Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ Bí–sô–ni Tỳ–nại–da; Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ Bách nhất yết–ma, Trùng trị Tỳ–ni sự nghĩa tập yếu; Luật Tỳ– kheo giới bổn sớ nghĩa; Tỳ–ni, Sa–di, oai nghi, cảnh sách; Nghi truyền giới v.v...

 


Pháp quyển của Hòa thượng Ðỗng Minh

Song song với việc dịch thuật, Ngài còn hướng dẫn phiên dịch và chứng nghĩa từ tập 1 đến tập 17 trong Ðại chính tân tu.
Cuộc đời Ngài với nhiều sóng gió, đến lúc già mới có phần nhẹ nhàng. Nhưng nếp sống khắc kỷ, cộng với tuổi già sức yếu do bao gian nan thời niên thiếu, Ngài lâm trọng bệnh. Thân bệnh mà tâm luôn an nhiên tự tại. Biết ngày về với Phật không còn lâu, Ngài đã sắp xếp việc phiên dịch, dùng tịnh tài trị bệnh của mình còn lại vào việc dịch thuật, ấn tống kinh sách và khuyên thị giả cố gắng tiếp nối công việc này.
Ngày 11 tháng 5 năm Ất Dậu (17/06/2005), cảm thấy yếu dần, từ võng Ngài bảo thị giả đưa qua giường nằm. Ðến 18 giờ 35 phút, Ngài an nhiên xả báo thân trong tư thế cát tường tại chùa Long Sơn, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa, trụ thế 79 năm, 59 hạ lạp.
Cuộc đời Ngài quả là một tấm gương sáng chói, cả về đạo hạnh lẫn sự nghiệp hoằng dương Phật pháp. Ngài luôn thể hiện nếp sống của bậc chân tu, thiểu dục tri túc, giới đức tinh nghiêm, gắn liền đời sống của mình với sự nghiệp giáo dục đào tạo Tăng tài. Mặc dầu về già, Ngài chuyên về dịch thuật nhưng vẫn luôn theo dõi khích lệ đàn hậu bối. Công việc dịch thuật của Ngài là một trong những cách giáo dục cho thế hệ mai sau. Nhưng tiếc thay, tâm nguyện cuối cùng là hoàn thành kho tàng Pháp Tạng Phật giáo Việt Nam của Ngài chưa thành tựu thì Ngài đã xả bỏ báo thân về nơi An dưỡng!

 

Contact Information

Phone
Array
Address Array
This entry was posted in . Bookmark the permalink.