HT Trừng Chiếu Từ Mãn

Personal Information

Danh Tánh
HT Trừng Chiếu Từ Mãn - Ðời Thứ 42 Tông Lâm Tế - Ðời Thứ 8 Dòng Lâm Tế Liễu Quán
Gender ♂️ Male

Hành Trạng

Additional Info

Hòa Thượng Trừng Chiếu Từ Mãn (1918 - 2007)
Chùa Linh Sơn - Đà Lạt

Hòa thượng họ Hồng húy Ngọc Chân, pháp danh Trừng Chiếu, tự Giác Hạnh, hiệu Hưng Phước, đạo Hiệu Từ Mãn, sinh ngày 20 tháng 4 năm 1918 (nhằm năm Mậu Ngọ) tại làng Đại Lộc, xã Điền Lộc, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên. Thân phụ là cụ ông Hồng Ngọc Cử và thân mẫu là cụ bà Trần Thị Thừa. Hòa thượng là con thứ 5 trong một gia đình gồm 6 anh em 4 trai 2 gái.
Gia tộc họ Hồng vốn là một gia tộc nhiều đời tin Phật, đặc biệt đã hơn bốn thế hệ luôn có người xuất gia tu hành, trở thành những Tỷ-kheo trong đoàn thể Tăng già Phật giáo. Tiếp nối truyền thống cao đẹp ấy, vào năm 12 tuổi (1930), khi túc duyên hội đủ, Hòa thượng được phép của song thân xuất gia tu học với đức Cố Đại lão Hòa thượng thượng Tâm hạ Khoan, đương thời là Tăng Cang Quốc Tự Diệu Đế, Trú trì Tổ đình Báo Quốc, Thuyền Tôn, Kim Tiên..., Cố Đô Huế.
Năm 16 tuổi (1934) Hòa thượng được Bổn sư cho thọ giới Sa-di với pháp danh Trừng Chiếu, pháp tự Hưng Phước.
Năm 18 tuổi (1936), sau khi Bổn sư của Hòa thượng viên tịch, Hòa thượng cầu Y Chỉ với đức Đại lão Hòa thượng Tịnh Khiết, Tòng Lâm Pháp Chủ.
Năm 21 tuổi (1939) Hòa thượng theo học trường Trung Đẳng Phật Học tại chùa Tây Thiên, Huế do Sơn Môn tổ chức. Trong thời gian này cũng có một trường khác tại chùa Báo Quốc do phong trào chấn hưng Phật giáo thành lập.
Năm 26 tuổi (1944), Hòa thượng được phép thọ Tỷ-kheo giới tại Đại Giới đàn Thuyền Tôn do Đại lão Hòa thượng Giác Nhiên làm Đường đầu Hòa thượng và Đại lão Hòa thượng Tịnh Khiết làm Yết-ma.
Vào năm 1946, tình hình trong nước hết sức phức tạp, xã hội loạn ly, các trường Phật học ở Huế đều tạm nghỉ; Hòa thượng trở về tu học tại chùa Kim Tiên. Sau đó, vì hoàn cảnh kinh tế quá khó khăn, Hòa thượng cùng với chư Tăng vân tập về Tổ đình Thuyền Tôn, Huế, để lao động sản xuất, thực hiện phương châm Bất tác bất thực.
Năm 1947, lúc Ngài 29 tuổi, Hòa thượng được Tổng hội Phật giáo Trung Việt bổ nhiệm làm Trụ Trì Chùa Linh Sơn Đà Lạt - Tỉnh Lâm Viên và Hòa thượng Thiện Minh làm giảng sư, đồng thời là Đại diện Tổng hội lãnh đạo các tỉnh miền Nam Trung Việt và 3 tỉnh Cao Nguyên.
Năm 1950, Hội Phật học Trung phần đã tổ chức Khóa Hạ An Cư tập trung tại chùa Linh Phong Đà Lạt do Hòa thượng Bích Nguyên sáng lập. Khóa Hạ gồm các Hòa thượng Quảng Nhuận, Minh Cảnh, Bích Nguyên, Từ Mãn, Thiện Minh, Hoa Sơn. Sau mùa An cư, với sự đề nghị của chư Tôn đức, Hòa thượng Bích Nguyên đã hỷ cúng chùa Linh Phong để làm cơ sở cho Ni Bộ tại Tỉnh Lâm Viên, và ngôi Tam Bảo này chính thức trở thành trụ sở của Ni Bộ Bắc Tông Lâm Viên vào năm 1952. Trong khoảng thời gian này, Ngài thường lên xuống Nha Trang để giảng dạy Trường Sơ Đẳng Phật học tại chùa tỉnh Hội Long Sơn. Ngôi trường này là tiền thân của Phật Học viện Hải Đức Nha Trang.
Năm 1952, Ngài cung thỉnh Đại lão Hòa thượng Thích Tịnh Khiết, Hội Chủ Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam, vào Đà Lạt để chứng minh lễ đúc Tượng Phật và Đại Hồng Chung chùa Linh Sơn.
Cũng vào năm 1952, thể theo lời mời của Đức Từ Cung, Đoan Huy Hồng Thái Hậu, mẹ vua Bảo Đại, Hội Phật học Trung phần bổ nhiệm Ngài làm Trụ Trì Chùa Sắc Tứ Khải Đoan, thành phố Buôn Mê Thuột. Trong thời gian làm Phật sự tại Buôn Mê Thuột, Hòa thượng đã đặt đá xây dựng các chùa Hoa Nghiêm, Huyện CưMgar, Dăklăk (1958), chùa An Lạc, Buôn Hồ, Dăklăk, chùa Nam Thiên, Xã Hòa Thuận, Dăklăk (1958). Tại đây, Ngài đã lãnh đạo Tăng Ni Phật tử chống lại chính sách kỳ thị tôn giáo của chính quyền Ngô Đình Diệm.
Năm 1964, sau khi Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất thành lập, Hòa thượng được Viện Hóa Đạo tái bổ nhiệm làm Trụ Trì chùa Linh Sơn Đà Lạt, kiêm Trưởng Ban Quản Trị trường Bồ Đề Đà Lạt.
Năm 1966, Hòa thượng đã cùng Ban Đại Diện Tỉnh Hội xây dựng Giảng đường chùa Linh Sơn Đà Lạt, nay là Trường Trung cấp Phật học Lâm Đồng, nhằm đáp ứng nhu cầu giáo dục của Tỉnh nhà, đồng thời có hướng làm Hội trường cho Đại hội Phật giáo Toàn quốc. Trong khoảng thời gian từ 1964-1974, Hòa thượng đã cùng với Giáo hội địa phương thành lập và xây dựng một hệ thống các Chi, Khuôn Giáo hội, Ký Nhi Viện Nhị Trưng, Kiều Đàm, Thái Phiên và Chẩn Y Viện Phật giáo.
Năm 1973, Hòa thượng được cung thỉnh làm Phó Chủ Đàn Giới Đàn Phước Huệ do Viện Hóa Đạo tổ chức tại chùa Tỉnh Hội Long Sơn, Nha Trang. Cố Đại lão Hòa thượng Thích Trí Thủ là Chánh Chủ Đàn và Đại lão Hòa thượng Thích Phúc Hộ là Đàn đầu Hòa thượng.
Từ năm 1974-1980, Hòa thượng được cung cử làm Chánh Đại Diện tỉnh Tuyên Đức, kiêm Trụ Trì Chùa Linh Sơn - Đà Lạt.
Năm 1980 Ngài được Viện Hóa Đạo mời làm Phó Ban Kiến Đàn Đại Giới Đàn Thiện Hoa tại Tổ Đình Ấn Quang - TPHCM.
Năm 1981, sau khi Giáo hội Phật giáo Việt Nam được thành lập tại Hà Nội, Ngài được suy cử vào Ủy viên Hội đồng Trị Sự Trung Ương GHPGVN nhiệm kỳ I.
Từ năm 1982 - 2007, tại các Đại hội Đại Biểu Phật Giáo Tỉnh Lâm Đồng lần thứ I đến lần thứ VI, Hòa thượng liên tiếp được Giáo hội, Tăng Ni và Phật tử tỉnh suy cử làm Trưởng Ban Trị sự Phật giáo Lâm Đồng suốt sáu nhiệm kỳ.
Năm 1991, Trường Cơ Bản, nay là Trung cấp Phật học Lâm Đồng, được thành lập; Hòa thượng được cung thỉnh làm Hiệu trưởng.
Năm 1993, để hỗ trợ cho việc xiển dương thiền học, đặc biệt là Thiền Phái Trúc Lâm Việt Nam, Ngài và Hòa thượng Thích Thanh Từ đã đề nghị chính quyền Tỉnh Lâm Đồng và thành phố Đà Lạt cấp đất tại Hồ Tuyền Lâm để xây dựng nên Thiền viện Trúc Lâm ngày nay.
Năm 1994, Ngài được Ban Trị sự Tỉnh Hội Phật giáo Lâm Đồng cung thỉnh làm Đàn Đầu Hòa thượng cho Đại Giới đàn Nhơn Thứ, tổ chức tại chùa Linh Sơn - Đà Lạt.
Năm 1997, Ngài đã được Đại hội Đại biểu Phật giáo toàn quốc Nhiệm Kỳ IV (1997-2002) suy cử làm Thành viên Hội Đồng Chứng Minh TWGHPGVN.
Năm 1998, Ngài được Giáo hội Tỉnh cung thỉnh làm Đàn Đầu Hòa thượng cho Giới đàn Trí Thủ, tổ chức tại chùa Linh Sơn - Đà Lạt.
Năm 2002, Ngài chứng minh và đặt đá xây dựng Thích Ca Phật Đài, Niêm Hoa Vi Tiếu, tạc theo truyền thuyết của Thuyền Tông, cao 24m, tại Thiền viện Vạn Hạnh, Phường 8, Đà Lạt.
Năm 2003, lại một lần nữa Ban Trị sự Tỉnh hội Phật giáo Lâm Đồng cung thỉnh Hòa thượng làm Đàn Đầu Hòa thượng cho Đại Giới đàn Diệu Hoằng tại chùa Linh Sơn, Đà Lạt.
Kể từ ngày cất gót vân du, hoằng truyền Phật pháp, Ngài đã truyền trao Tam Quy Ngũ Giới cho hàng ngàn Phật tử tại gia. Đệ tử xuất gia của Ngài tổng số trên 30 vị; trong số này đã có nhiều vị đã trưởng thành, hiện đang công tác Phật sự tại Tỉnh nhà cũng như nhiều địa phuơng khác. Suốt đời Hòa thượng đã đem hết tâm tư và khả năng để phụng sự chúng sanh nhằm báo đáp ân Phật.
Cùng với sự biến chuyển vô thường của thời gian, như một chiếc xe cũ đã đến hồi mục nát, thân tứ đại của Ngài mỗi ngày mỗi suy yếu. Biết được sự giới hạn của tự thân, nhiều lần Ngài đã ngỏ ý trao lại mọi trọng trách của Giáo hội lại cho Tăng-già để tập trung vào con đường giải thoát tâm linh. Tuy nhiên, bao nhiêu lần xin từ chức, bấy nhiêu lần Giáo hội địa phương cũng như Trung ương yêu cầu lưu nhiệm. Bởi vì, trong hoàn cảnh lịch sử đặc thù của địa phương, Phật giáo Lâm Đồng không những cần một Bậc lãnh đạo sáng suốt, sắc bén, trầm tĩnh để giải quyết những công tác Phật sự vô cùng nóng bỏng và tế nhị; Tăng Ni, tín đồ Đà Lạt không những cần một bức bình phong vững chắc như một “Sơn Môn Bảo Chướng” để ngăn che chướng khí khi trời đất không giao hòa… mà nhân tâm ở đây còn cần đến một tấm lòng bao dung, độ lượng, từ bi hỷ xả của một Bậc Cao tăng để hóa giải những bất đồng, những xung đột  và những ngộ nhận nếu có trong cuộc sống. Quả thật, như một hiện thân của đức độ, bao dung, hiền hòa, từ ái, bất cứ nơi nào bước chân Ngài đặt đến, ở đó, vùng đất tâm người bỗng hoan hỷ nở hoa. Có nhiều hoàn cảnh đang trong tình trạng dầu sôi lửa bỏng, khi Hòa thượng xuất hiện, đức độ của Ngài nhẹ nhàng lan tỏa hóa giải mọi năng lượng xung đột căng thẳng; tâm từ bi của Ngài như một đám mây lành che phủ làm mát dịu nhân tâm. Cũng vì lẽ ấy, dù đã ở tuổi 90, Đại hội Đại biểu Phật giáo Lâm Đồng lần thứ VII (2007-2012) một lần nữa cầu thỉnh Ngài tiếp tục lưu nhiệm chức vụ Trưởng Ban. Và lần này, Ngài cũng không thể chối từ dù chỉ giữ vai trò chứng minh, cố vấn.
Theo sự biến chuyển của thời gian, thân tứ đại của Ngài đã đến lúc phải trả về tứ đại. Vào tháng 11-2007, Hòa thượng trở bịnh. Hòa thượng an nhiên thị tịch tại chùa Linh Sơn - Đà Lạt vào lúc 01 giờ 15 phút sáng, ngày 30 tháng 11 năm 2007 (nhằm ngày 21 tháng 10 năm Đinh Hợi); hưởng thọ 90 tuổi đời, 63 hạ lạp.
Tháp của Ngài hiện được tôn trí trong khuôn viên chùa Linh Sơn Đà Lạt.

*
Điếu Văn
(Của Ban Trị sự Tỉnh hội Phật giáo Lâm Đồng Đọc trong lễ Truy tiến Giác linh Đại lão Hòa thượng thượng Từ hạ Mãn, ngày 05 tháng 12 năm 2007)

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật,
Ngưỡng bạch Giác linh đức Đại lão Hòa thượng thượng Trừng hạ Chiếu, hiệu Từ Mãn, Trưởng ban Trị sự Tỉnh hội Phật giáo Lâm Đồng.
Hôm nay, chư tôn Hòa thượng, Thượng tọa, Đại đức Tăng Ni và Phật tử chúng con vô cùng thương tiếc, cung tiễn Kim quan Hòa thượng nhập vào Bảo tháp. Chúng con kính dâng bậc Tôn sư đôi dòng ai điếu.
Chúng con từng kính nghe :
Pháp tánh chơn thường, há còn tử sanh hoại diệt
Niết-bàn tịch tĩnh, đâu còn huyễn hóa sanh thân.
Song vì nỗi, mượn huyễn thân mà chứng pháp thân
Lại ngẫm xem, tùy tục đế quy về chơn đế.
Thế nên :
Linh sơn tiếng chuông triêu mộ, môn đồ bi lệ
Đà Lạt vắng bóng Tôn dung, tứ chúng ngậm ngùi
Nhớ Tôn sư xưa :
Bất vi bản thể, dòng học Hồng mượn chổ thác sinh
Quán chiếu nhân duyên, đất Thừa Thiên làm nơi cố quận.
Phụ mậu nhiều đời tin Phật,
Cố hương hun đúc nhân tài,
Tuổi nhỏ vốn hiếu thảo song thân,
Mới lớn, lộ bản hồi Thượng sĩ,
Nhân duyên nhiều kiếp, mười hai tuổi cát ái từ thân,
Bản hạnh tròn đầy, chốn cửa tục xuất gia học đạo.
Bổn sư Pháp hiệu Tâm Khoan, bậc Long trượng Thiền môn lương đống.
Bổn tự Sắc tứ Báo Quốc, chốn thần kinh cổ tự nương thân,
Mười sáu tuổi thọ giới Sa-di, từ đây nghiêm từ giới luật,
Mười tám tuổi, Bổn sư viên tịch, y chỉ Hòa thượng Tường Vân
Trường Trung Đẳng Tây Thiên, đèn sách chuyên cần
Tại Thuyền Tôn giới đàn, thọ giới Cụ túc.
Chiến tranh loạn lạc, trở lại chốn xưa, lao tác Thiền môn,
Đời sống khó khăn, cơm rau đạm bạc, “Bất tác bất thực”.
Rời chốn thần kinh, đất Lâm Viên hoang sơ hóa độ
Về xứ Đà Lạt, chùa Linh Sơn đảm nhiệm Trú trì
Khi thì khai sơn phá thạch kiến tạo tòng lâm
Có khi truyền đăng tục diệm, giảng bài đứng lớp
Truyền trao giới luật, giữ ngôi Hòa thượng đàn đầu
Duy trì hòa hợp, đảm nhiệm Trưởng ban Trị sự
Nơi nào cần ngài sẽ đến
Phật sự thành, thầy ra đi
Vẫn tưởng rằng, ung dung tuổi hạc, vững trụ Thiền môn
Nào hay đâu, vội đứt huyễn thân, về nơi tịch diệt
Giáo hội mất đi một “Thạch trụ tòng lâm”
Tăng già tổn thất bậc “Thiền môn lương đống”
Từ đây :
Miền Thiên trúc thảo hài tự tại, ngài nhập biển tánh Tỳ-lô
Chốn Linh Sơn khuất bóng ưu đàm, người về thong dong cõi tịnh
Vài dòng thô thiển dâng lên
Tâm thành muôn một báo đền thâm ân.
Nam mô Từ Lâm Tế Chánh Tôn tứ thập nhị thế húy  thượng Trừng hạ Chiếu, tự Giác Hạnh, hiệu Hưng Phước, đạo hiệu Từ Mãn Giác linh Hòa thượng.

Contact Information

Phone
Array
Address Array
This entry was posted in . Bookmark the permalink.