HT Trừng Khiết Như Như

Personal Information

Danh Tánh
HT Trừng Khiết Như Như
Gender ♂️ Male

Hành Trạng

Additional Info

Hòa thượng Như Như Đạo Nhân (1851 - ?)
Chùa Báo Quốc - Huế

Theo Như Như Đạo nhân bản truyện trong Hàm Long Sơn Chí quyển 7 thì Hòa thượng có thế danh là Nguyễn Phúc Hoàng Vịnh, Quê quán của Hòa thượng là Gia Miêu ngoại trang huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Vì Hòa thượng là người Hoàng phái, dòng dõi nhà vua, bởi vì Hòa thượng có họ là Nguyễn Phúc, lại kèm thêm chữ Hồng trước tên, trong hệ thống bài thơ thuộc Đế hệ của vua Minh Mạng đặt ra. Hòa thượng là con của Hoàng tử thứ 51 của vua Minh Mạng tên là Nguyễn Phúc Miên Thanh (1830-1877) và quý nhơn họ Lê.
Hòa thượng là đệ tử của Hòa thượng Tâm Truyền ở chùa Báo Quốc, có Pháp danh là Trừng Khế, tự là Như Như. Hòa thượng sanh vào giờ Dần ngày 15 tháng 01 năm Tân Hợi, Tự Đức thứ 5 (1851). Tuổi nhỏ đã thông minh; tính người nhã đạm, ưa thích ngâm vịnh, thiểu dục. Chỗ ở của Hòa thượng lúc còn tại thế tục gọi là Đào Hoa Trang, dưới chân núi Ngự Bình. Lúc ấy Hòa thượng thường mặc áo vỏ cây, cưỡi con ngựa trắng rong chơi miền núi non vùng nam sông Hương. Người thấy như một Hòa thượng hâm mộ Lão trang đạo cốt; mọi thơ phú bí điển đều tìm đọc, lại hiểu sâu về y lý.
Năm Thành Thái Ất Mùi (1895) phụng chỉ Thái hậu phổ thí Tăng Ni bị bệnh để cúng dường. Năm Thành Thái thứ 8, Bính Thân (1896) quy y ở chùa Viên Thông; năm sau, Đinh Dậu (1897) được Ngài Tâm Truyền thọ ký. Năm Thành Thái thứ 10, Mậu Tuất (1898), được Hòa thượng giao cho giữ chức Tri tạng chùa Báo Quốc. Khi các vị Trưởng lão Đại đức ở các chùa núi lập ra Liên Trì Xã, vì Hòa thượng tính vốn thích du ngoạn sơn thủy, nên đã cùng các vị đi du ngoạn và xướng vịnh rất nhiều thi ca. Hòa thượng có trước thuật Lưỡng Xuân sơn chí khoảng 100 cuốn, chép thơ văn của bạn bè và chư sơn tự Tăng làm ở Thi xã Liên Trì. Trong đó có thơ văn của Tuy Lý Vương, của Viên Thành Thượng nhân...
Vào mùa xuân năm Kỷ Hợi (1899), Hòa thượng Tâm Truyền bảo Hòa thượng tục biên bộ Hàm Long Sơn Chí. Chỉ trong vòng 3 tháng, Như Như Hòa thượng hoàn thành bộ sách tục biên. Các bậc thức giả đều ca ngợi và cho rằng đấy là một công trình vĩ đại trong chốn Tòng lâm. Ngoài sự tục biên bộ Hàm Long Sơn Chí, Hòa thượng Như Như còn trước tác tập Đào Trang Tập, ghi lại những trước tác khi còn ở Đào Hoa Trang khi còn thế tục.
Đến khi về già, Hòa thượng tịch khi nào và tháp dựng ở đâu, chúng tôi chưa có tư liệu nên chưa biết được.
Phụ chú :
- Sách Hàm Long sơn chí: Về hình thức, đây là một bộ sách ở dạng cảo bản, chưa thấy khắc in san hành. Sách gồm có bao nhiêu tập, gồm bao nhiêu quyển hiện chưa kiểm được vì sau thời gian loạn lạc; sách đã lưu hành phân tán nhiều nơi, thật là một điều đáng tiếc.
Khổ sách 17,7cm x 29cm; trong lòng mỗi tờ có khắc khuôn viền 13,5 cm x 24,8 cm. Viết trên giấy bản xưa. Tờ sách được kẻ dòng rất rõ nhưng không đều. Có nơi 6 dòng, có nơi 7 dòng và có nơi đến 8 dòng. Mỗi dòng chữ lớn, chân phương rõ ràng thì có 20 chữ. Chữ viết trong sách có nhiều loại, gần như là có nhiều người thư ký. Có trang thì lại có đến ba thứ chữ: Chữ lớn nét đậm và rõ; chữ nhỏ cũng trong dòng đó nhưng viết đến hai hoặc ba hàng để ghi chú.
Ở gáy sách, phía trên có in chữ Hàm Long sơn chí; đến gạch kiểu sách chữ Hán xưa; đến chữ Quyển... ; ở dưới có mấy chữ "Báo Quốc Tự tàng bản", còn lại ba mặt viền màu đỏ để khỏi bẩn.
Bản mà chúng tôi hiện có là do Thư viện chùa Từ Đàm photocopy một bản, mà chúng tôi nghĩ đã do Như Như Hòa thượng viết lại, chứ không phải thủ bút của Điềm Tịnh Cư sĩ. Bởi vì dòng bút thứ nhất đề: "Báo Quốc Tự sự lục" tiếp là hai hàng chữ nhỏ trong cùng dòng đó: "Y cương mục Thành Thái bát niên dĩ tiền, Điềm Tịnh Cư sĩ soạn chí. Cửu niên dĩ hậu, Như Như tục biên". Sách có chấm câu rất rõ. Thành Thái năm thứ 8, ứng với năm Bính Thân (1896); năm thứ 9 ứng với năm Đinh Dậu (1897).
Sau phần "Từ Hiếu Tự sự lục" có ghi một dòng hai câu chữ nhỏ ý nói sách Hàm Long sơn chí nguyên thành được 6 quyển do Điềm Tịnh Cư sĩ soạn, đến Ngài Tâm Tịnh và Ngài Huệ Minh; phần Như Như Hòa thượng tục biên được 6 quyển nữa, cọng bộ này là 12 quyển. Nói là 12 quyển, nhưng thấy ở gáy sách lại có đề "Quyển nhất chi nhất, quyển nhất chi nhị, quyển nhất chi tam v.v..”. và tất cả các quyển đều vậy cả. Như thế tổng cọng số quyển sẽ rất nhiều chứ không phải 12 quyển như ta thường nghĩ.
Nội dung sách biên chép rất nhiều loại. Loại thứ nhất là sơ lược lịch sử các chùa gọi là "Sự lục", loại thứ hai là truyện của các Đại sư, các Hòa thượng, các Tổ; có chép Kệ phú Pháp cho đệ tử; loại thứ ba là chép các bi ký, tháp. Về "Sự lục", tức là lịch sử các chùa, có chép đủ từ duyên khởi khai sơn, địa phận, các vị Trú trì kế tiếp, cách thờ tự, điền thổ của Phật tử ngoại hộ, các vị Sơn tăng nổi bật ở trong chùa. Cũng có ghi các năm mở Đại giới đàn v.v...
Về tiểu truyện các Đại sư, các Hòa thượng, các vị Tổ đều có chép giờ, ngày, tháng, năm sinh, quê quán. Ít thấy ghi thế danh. Năm xuất gia tại chùa nào, về sau đắc Pháp với Ngài nào và có được Kệ phú Pháp. Ngày giờ tịch và tháp xây ở đâu. Về bi ký khi chùa được trùng tu, bia ở tháp mộ; do tác giả nào soạn văn bia, ngày lập bia đều có chép rõ. Nói chung, nội dung sách Hàm Long sơn chí rất sung thiệm về tài liệu nói đến các chùa ở Thuận Hóa, chư sơn tự Tăng và bi ký thuộc về các chùa ở Thuận Hóa vào cuối thế kỷ XIX và một vài thập niên đầu của thế kỷ XX.
Hai soạn giả: Điềm Tịnh Cư sĩ và Như Như Hòa thượng là những Phật tử thâm tín Phật pháp. Có thể các vị đã theo triết lý “tam giáo đồng quy”, nhưng nghiêng về giáo pháp đức Phật hơn. Khi soạn bộ Hàm Long sơn chí, các viï đều tỏ ra tinh thần của người Phật tử thuần thành, tôn trọng sự thật của lịch sử chính xác. Tuy các vị rất giỏi về thơ văn, nhưng không để phần văn chương len vào làm mất tính chân xác của lối văn chép sử.
Vì vậy, về mặt trước tác, ta phải nói, nếu sưu tầm lại cho đầy đủ và chuyển ngữ ra tiếng Việt được toàn bộ thì Hàm Long sơn chí quả là bộ sử rất quý cho Phật giáo xứ Huế vậy.

Contact Information

Phone
Array
Address Array
This entry was posted in . Bookmark the permalink.