HT Trừng Thủy Giác Nhiên

Personal Information

Danh Tánh
HT Trừng Thủy Giác Nhiên - Ðời Thứ 42 Tông Lâm Tế - Ðời Thứ 8 Dòng Lâm Tế Liễu Quán
Gender ♂️ Male

Hành Trạng

Additional Info

Hòa thượng Trừng Thủy Giác Nhiên (1878 - 1979)
Chùa Thuyền Tôn - Huế

Ngài tên thật là Võ Chí Thâm, sinh ngày 7 tháng 1 năm 1878, tại làng Ái Tử, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Con của cụ Võ Văn Xưng và bà Trần Thị Diêu.
Ngài sinh ra trong một gia đình có truyền thống theo Phật giáo.
Năm 18 tuổi (1896), Ngài vào chùa Từ Hiếu xin xuất gia, thờ Hòa thượng Tâm Tịnh làm Bổn sư.
Năm 20 tuổi (1898), được Bổn sư xuống tóc cho thọ Sa-di giới và ban Pháp danh Trừng Thủy, Pháp tự Chí Thâm, Pháp hiệu là Giác Nhiên.
Tại Huế, Sau hai mươi ba năm tu học, Ngài chuyên tâm nghiên cứu tinh yếu của Kinh Luật Đại thừa, đặc biệt, Ngài đã sử dụng phần lớn thời gian trong việc Thiền định. Vì thế, đạo phong của Ngài ngày càng đượm nét Thiền sư.
Đến năm Canh Tuất (1910), Triều Duy Tân, Ngài cùng với Hòa thượng Tịnh Khiết thọ Tam đàn Cụ túc Giới đàn chùa Phước Lâm (Hội An). Đại giới đàn này do ngài Vĩnh Gia làm Đàn đầu, ngài Tâm Truyền làm Yết ma và ngài Hoằng Phú làm Giáo thọ. Sau đó Ngài đắc Pháp, hiệu Giác Nhiên và được Bổn sư cho kệ:
覺  性  自  天  然
色  空  不  現  前
勿  礙  閒  人  事
勤  修  本  理  禪。
Phiên âm:
Giác tánh tự thiên nhiên,
Sắc không bất hiện tiền.
Vật ngại nhàn nhơn sự
Cần tu bổn lý thiền.
Nguyên Hồng dịch:
Tính giác vốn tự nhiên
Sắc không chẳng hiện tiền
Ngại chi trò thế sự
Siêng tu diệu lý thiền.
Từ đó, giới đức tinh nghiêm, pháp thân thanh tịnh là kim chỉ nam trong suốt cuộc đời hoằng hóa của Ngài sau này.
Lúc Ngài được 32 tuổi đời thì Bổn sư viên tịch. Ngài phải tìm đến chùa Thiên Hưng để cầu xin học đạo với Hòa thượng Huệ Pháp. Từ đó đạo hạnh của Ngài càng sáng lên, khắp Thiền lâm đều ngưỡng mộ về Thiền và Luật của Ngài, cũng như phương pháp tu trì của Ngài.
Năm Kỷ Mùi (1919), Ngài được Bộ Lễ cử về làm Trú trì Thánh Duyên Quốc Tự, sau đó lại được "Chỉ" của vua Khải Định cử làm Tăng cang chùa này.
Năm 1932, Hòa thượng là một trong năm vị Tăng-già đã cùng với 17 Cư sĩ lập ra An Nam Phật Học Hội tại Huế. Ngài cũng ở trong Hội đồng Chứng minh đại đạo sư cho Hội này. Ngài đã cùng với Cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám sáng lập ra Viên Âm Nguyệt San để hoằng truyền Chánh pháp.
Vào năm 1935, Ngài là một trong những vị lập trường Đại học Phật giáo tại chùa Tây Thiên, cung thỉnh Ngài Phước Huệ ở Tổ đình Thập Tháp ra làm "Giáo thọ sư" và Ngài làm giám đốc. Lớp này đào tạo được nhiều vị Cao Tăng như các ngài Thiện Hòa, Thiên Hoa từ trong Nam ra học; các ngài Trí Thủ, Đôn Hậu, Chánh Thống, Mật Nguyện, Mật Hiển, Thích Vĩnh Thừa ở Huế.
Năm 1936, Triều đình phong chức Ngài lên chức Tăng Cang Thánh Duyên Quốc tự. Cùng năm đó, Tạp chí Viên Âm, phương tiện hoằng pháp của Phật giáo, do Ngài và Hòa thượng Giác Tiên chứng minh.
Năm 1937, do ủy nhiệm của các vị Tôn đức Thiền gia, Ngài nhận chức Trú trì Tổ đình Thuyền Tôn (Thừa Thiên). Tổ đình này, thuộc phái Lâm Tế, do Tổ Liễu Quán khai sơn vào khoảng năm thứ IV niên hiệu Vĩnh Thịnh (1708).
Năm 1956, Ngài được Giáo hội Phật giáo Trung phần cung thỉnh vào chức vụ Viện trưởng Phật học viện Hải Đức - Nha Trang (Cơ quan đào tạo Tăng tài của Phật giáo Trung phần).
Năm 1958-1962, Ngài liên tiếp đảm nhận chức Chánh Hội trưởng Tổng Trị sự Hội Phật giáo Trung Phần trong suốt 4 niên khóa. Trong thời gian này, với tuổi trên 80, Ngài vẫn chu toàn nhiệm vụ, kinh lý, nhiều lần đến các Hội Phật giáo khắp nơi ở Cao nguyên và Trung nguyên.
Xúc động hơn nữa, cũng chính Ngài, năm 88 tuổi, sức yếu thân gầy, trong tay chiếc gậy trúc, Ngài không từ nan, quyết một lòng hy sinh vì Đạo, đích thân dẫn đầu cuộc biểu tình của Tăng tín đồ Phật giáo Thừa Thiên Huế, mở đầu phong trào vận động đòi hỏi tự do tín ngưỡng và bình đẳng Tôn giáo vào chiều 14 tháng 4 năm 1963 (Quý Mão). Trong công cuộc vận động và đấu tranh, Ngài đã không ngừng chung lưng đấu cật, xẻ đắng chia cay cùng với phong trào cho đến ngày thành tựu mỹ mãn.
Một công việc Hoằng pháp trọng yếu hơn nữa, Ngài đã nhiều lần làm Đàn đầu Hòa thượng truyền giới cho đồ chúng xuất gia tại gia qua các Đại Giới đàn: Giới đàn Hộ Quốc tại Phật học viện Trung phần, chùa Hải Đức, Nha Trang (1956); Giới đàn Vạn Hạnh tại chùa Từ Hiếu, Huế (1965), Giới đàn Vĩnh Gia tại Phật học viện Phổ Đà, Đà Nẵng (1970).
Môn đồ của Ngài không nhiều, người còn kẻ mất, đều đã góp công làm nên lịch sử Phật giáo hiện đại, và hầu hết là những cấp lãnh đạo của Giáo hội từ Trung ương đến các Miền, Tỉnh thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam, như Hòa thượng Thiện Siêu, Hòa thượng Thiện Minh, Hòa thượng Thiện Bình…
Trang trải quá nửa đời người, nghịch cảnh, chướng ngại vẫn còn bủa vây Giáo hội cùng dân tộc. Tuy nhiên, nhất thâm nhật hậu, với bản chất cố hữu “Vô ngôn bất động” của Ngài qua Giới, Định, Tuệ, đã tạo nên một sức mạnh nội tại phi thường như để tiếp sức cho những đứa con tinh thần, đang trên đường làm sứ mệnh Phật giáo Việt Nam.
Rồi tin ngừng bắn được loan đi vào ngày 28-1-1973, đất nước rẽ sang một giai đoạn mới, từ đó, Giáo hội cũng bắt đầu đối mặt với một hoàn cảnh khá phức tạp và tế nhị. Không bao lâu, sau khi đức đệ nhất Tăng Thống của Giáo hội thị tịch (1973) - sinh hoạt của Giáo hội trở nên chông chênh không người lèo lái. Trước hoàn cảnh đó, Ngài đã nhận chức vụ Đệ nhị Tăng Thống do Đại hội Phật giáo kỳ V suy tôn vào ngày 10 tháng 12 năm 1973, trong chí nguyện Thiệu Long Tam Bảo, để kế tục lãnh đạo Giáo hội. Đây là chức vụ vừa tối cao, và cũng là cuối cùng của đời Ngài.
Mặc dầu công việc đối ngoại của Giáo hội đa đoan và phức tạp, Ngài vẫn không xao lãng việc Nhiếp hóa đồ chúng. Ngài từng huấn dụ Tăng Ni: “Đạo Phật tồn tại, không chỉ ở hình thức Chùa Tháp, Lễ nghi, Kinh điển. Mặc dù Kinh điển là chỉ nam hướng dẫn ta đến đạo quả vô thượng Bồ đề. Nhưng sự tồn tại đích thực chính là ở sự thể hiện Đạo phong. Những nếp sống gương mẫu của các bậc Tăng-già nghiêm trì giới luật và biết tận lực phục vụ Chánh pháp, để Chánh pháp mãi mãi tồn tại với thế gian và làm lợi ích chúng sanh…” (Thư gửi Tăng Ni, nhân mùa An cư  PL.2520 - 1976).
Thật vậy, mặc dầu đã 102 tuổi, nhưng nơi Ngài không hề thấy có triệu chứng thông thường của những bậc luống tuổi. Pháp thể tuy có gầy ốm nhưng Ngài vẫn đi đứng bình thường. Dáng đi mạnh mẽ khoan thai, oai nghiêm đĩnh đạc, không phiền người dìu dắt, không hề nắm gậy, ngồi hàng giờ lưng không biết đau, gối không biết mỏi. Mắt không mờ tai không lãng, nói năng rõ ràng không hề lẫn lộn và trí tuệ minh mẫn một cách lạ thường.
Mắt mờ, tai lãng, gối mỏi, lưng đau, nói năng lẫn lộn, trí nhớ mất đi và đi đâu phải chống gậy, đó là những triệu chứng thường tình, có ở nơi các bậc luống tuổi. Nhưng ở Ngài thì không. Phải chăng nhờ công hạnh tu trì của Ngài đã làm thay đổi được những triệu chứng thường tình của thế nhân. Ngần ấy đức tánh đặc hữu nơi Ngài, đủ làm chúng ta kính phục và tăng trưởng đạo tâm.
Trong dịp đầu Xuân Kỷ Mùi khi Hòa thượng Đôn Hậu - Chánh Thư ký Viện Tăng Thống và quý Hòa thượng, Thượng tọa, Đại đức trong Giáo hội Thừa Thiên đến Tổ đình Thuyền Tôn đảnh lễ và Chúc Thọ đầu năm (04-01-Kỷ Mùi). Hôm đó trời trở lạnh, Ngài đang nghỉ, Hòa thượng Đôn Hậu và Ban Đại diện Giáo hội vào tận chỗ nghỉ. Ngài hỏi bằng một giọng nhẹ nhàng và vô cùng cảm mến: “Ai đó?”. Sau khi được trình lại, Ngài sửa soạn định ngồi dậy, Hòa thượng Đôn Hậu: “Xin thỉnh Ôn cứ nằm, cho phép chúng con được đảnh lễ Chúc Thọ đầu năm”. Ngài dạy:
“Để tôi ngồi dậy một tí với các Thầy, nằm ri e không phải lễ với các Thầy chừ”. Đoạn Ngài ngồi dậy, nhìn quanh rồi hỏi: “Thầy Đức Tâm mô, sao không vào cho tôi thăm với?”. (Hôm đó thầy Đức Tâm, Phó Đại diện Giáo hội tỉnh Thừa Thiên-Huế bị bệnh, không đi được). Ngần ấy lời lẽ, đủ thấy Ngài sáng suốt đến chừng nào.
Sau lễ Chúc thọ, như một vị Bồ-tát “Dự tri thời chí”, linh cảm trước được sự ra về vĩnh viễn của mình, Ngài ân cần dạy bảo những lời đầu năm vô cùng xúc động: “Tôi nay tuổi đã già rồi. Tôi thấy sức khỏe tôi kém nhiều, chưa biết chừng sự chết sẽ đến nay mai. Nay, nhân dịp đầu năm, Hòa thượng và các Thầy đến thăm tôi, tôi xin cảm ơn và xin cầu Phật gia hộ Hòa thượng và các Thầy nhiều sức khỏe, cố gắng kiên nhẫn trước mọi nghịch cảnh để phục vụ Giáo hội, dìu dắt Tăng Ni tín đồ tu niệm. Tôi thật không có gì vui mừng hơn.”
Ngờ đâu, lời huấn thị đầu Xuân và cũng là lời Di giáo tối hậu của Đức Tăng Thống. Chỉ vỏn vẹn một ngày sau, và cũng chỉ sau vài giờ pháp thể khiếm an, Ngài dạy: “Vô thường thị thường” rồi an nhiên xả báo thân vào hồi 6 giờ 30 ngày 6 tháng giêng Kỷ Mùi (01-02-1979). Ngài hưởng thọ 101 tuổi đời, 68 Hạ Lạp. Bảo Tháp của Ngài hiện tôn trí tại khuôn viên Tổ đình Thuyền Tôn - Huế.

---o0o---

1. BI THÁP “THUYỀN TÔN TỔ ĐÌNH ĐƯỜNG THƯỢNG GIÁC NHIÊN ĐẠI LÃO HÒA THƯỢNG THÁP MINH”

慈 扇 春 風                              悲 霑 夏 雨
秋 月 孤 圓                              冬 松 獨 秀
大 週 沙 界                              非 去 非 來
細 入 微 塵                              無 聲 無 臭
童 真 向 佛                              福 智 兼 修
一 悟 入 神                              師 資 授 受
披 衣 持 缽                              利 普 人 天
付 偈 談 經                              道 通 緇 素
僧 剛 爾 日                              海 眾 咸 依
和 尚 當 時                              戒 珠 廣 布
越 南 佛 教                              僧 統 繼 承
大 道 昭 垂                              含 靈 仰 慕
閻 浮 化 滿                              直 向 無 餘
四 眾 虔 求                              塔 留 玆 土
Phiên âm:
Từ phiến Xuân phong,              Bi triêm Hạ vũ,
Thu nguyệt cô viên,                   Đông tùng độc tú.
Đại châu sa giới,                         Phi khứ phi lai,
Tế nhập vi trần,                          Vô thanh vô xú.
Đồng niên hướng phật,            Phước trí kiêm tu,
Nhất ngộ nhập thần,                 Sư tư thọ thọ.
Phi y trì bát,                                Lợi phổ nhân thiên,
Phú kệ đàm kinh,                       Đạo thông tri tố.
Tăng Cang nhĩ nhật,                  Hải chúng hàm y,
Hòa thượng đương thời,           Giới châu quảng bố.
Việt Nam Phật giáo,                   Tăng Thống kế thừa,
Đại đạo chiêu thùy,                    Hàm linh ngưỡng mộ.
Diêm phù hóa mãn,                   Trực hướng vô dư,
Tứ chúng kiền cầu,                     Tháp lưu tư độ.
Tạm dịch:
“Bài Minh khắc trên tháp của Đại lão Hòa thượng Giác Nhiên, Đường thượng Tổ đình Thuyền Tôn”.

Từ phong là gió xuân về,
Bi lòng mưa thắm bốn bề hạ rang.
Trăng thu rọi ánh tâm quang,
Tùng đông xanh thẩm giữa ngàn tuyết sương.
Lớn thay sa giới muôn phương,
Không đi không lại mọi đường lãng xao.
Nhỏ thời cát bụi khó vào,
Tăm hơi vắng lặng ai nao suy lường!
Đồng niên quy Phật mười phương,
Phước đức trí tuệ đôi đường vẹn đôi.
Thần quang ngộ nhập tâm hồi,
Thầy trò truyền đạo trau dồi pháp thân.
Ca sa bình bát ân cần,
Lợi người lợi vật thiên nhân cúi đầu.
Đàm Kinh thuyết Kệ thâm sâu,
Người Tăng kẻ Tục đạo mầu cảm thông.
Tăng Cang thuở ấy Vua phong,
Đạo Đời thất chúng một lòng quy y.
Đôi phen Hòa thượng truyền trì,
Ngọc Châu giới đức rộng thi khắp miền.
Việt Nam Phật giáo chơn truyền,
Suy tôn Tăng Thống nối liền ngôi cao.
Sáng ngời đạo cả dạt dào,
Muôn linh ngưỡng mộ trông vào làm gương.
Huyễn thân hóa mãn mười phương,
Vô dư tốc chứng thẳng đường về quê.
Lòng thành đại chúng đề huề,
Dựng Bia xây Tháp lưu đề mai sau.

---o0o---

2.BI CHÍ
Đức Tăng Thống
Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất

Chơn như vẳng lặng, vốn không đến cũng không đi.
Huyễn tướng duyên sanh, đã có sanh tất có diệt;
Mê chơn như, chấp huyễn tướng là chúng sanh,
Ngộ huyễn tướng tức chơn như là Bồ-tát.
Đức Đại lão Hòa thượng húy Trừng Thủy hiệu Giác Nhiên, kế thừa đời thứ 42 dòng Thiền Lâm tế, đời thứ 8 pháp phái Liễu Quán, tên thật là Võ Chí Thâm, sinh năm 1878 (Mậu Dần) tại làng Ái Tử, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Năm 18 tuổi xuất gia đến cầu pháp với Hòa thượng Tâm Tịnh chùa Từ Hiếu. Hai năm sau thọ giới Sa Di. Năm 28 tuổi thọ giới Cụ túc với Hòa thượng Vĩnh Gia chùa Phước Lâm, tham học với Hòa thượng Tuệ Pháp chùa Thiên Hưng và Hòa thượng Phước Huệ chùa Thập Tháp.
Với chí nguyện truyền trì chánh pháp, hành đạo độ sanh, Ngài đã lần lượt giữ nhiều chức vụ trọng yếu trong Giáo hội.
Năm 1973, Hòa thượng Tăng Thống Tịnh Khiết viên tịch, Giáo hội suy tôn Ngài kế vị Tăng Thống cho đến ngày Ngài viên tịch.
Đời Ngài dài hơn thế kỷ, 101 tuổi đời, 69 Hạ lạp. Rạng ngời giới đức tinh nghiêm, đạo hạnh cao khiết, khoan từ giản dị, thiền phong trác việt, chí nguyện kiên trinh, tuệ tâm siêu thốt. Dầu tuổi đã rất cao mà thể chất vẫn an lành, tinh thần vẫn sáng suốt lạ thường.
Ngài vô bệnh an nhiên thị tịch lúc 6 giờ 30 sáng mồng 6 tháng Giêng Kỷ Mùi, 1979, giữa muôn vạn tấm lòng ngưỡng mộ tôn sùng như một vị Bồ-tát hóa thân.
Phật lịch 2522, cuối tháng hai Kỷ Mùi, 1979
Giáo hội và Môn Đồ Đệ Tử Đồng Phụng Lập.

---o0o---

3.ĐIẾU TỪ
của Viện Hóa Đạo
Cung tuyên trong lễ Nhập Tháp 15.01.Âl
(11.02.1979) tại Huế.

Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất ra đời với sứ mạng thừa kế sự nghiệp truyền trì Đạo giáo cao cả của Đức Bổn sư Từ phụ Thích Ca Mâu Ni mà liệt Tổ truyền giáo đã dày công xây dựng trên giải đất Việt Nam thân yêu này, với một cơ đồ vững chắc tốt đẹp hơn hai ngàn năm lịch sử. Chưa có một đạo giáo, học thuyết nào trong quá khứ đã có một ảnh hưởng, một thọ mạng, một địa vị hơn thế được đối với xứ sở này. Thật vậy, lịch sử truyền giáo của Phật giáo Việt Nam là một lịch sử gắn liền với lịch sử giữ nước dựng nước của dân tộc Việt Nam. Điều đó không ai phủ nhận được và cũng không có tổ chức nào trong quá khứ có trang sử vẻ vang trọn vẹn như vậy, đối với xứ sở. Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất là hậu thân, là miêu duệ xứng đáng của Giáo hội và liệt Tổ tiền nhiệm của Phật giáo cho dân tộc Việt Nam.
… Hôm nay, giờ này, trước Linh đài, trước Bảo Tháp, trước hình ảnh uy nghiêm Đức Tăng Thống và trước cộng đồng Tăng Tín đồ Giáo hội, Giáo hội chúng con đê đầu đãnh lễ liệt Tổ quá khứ để xin mạo muội gợi lại vài nét vàng son của Phật giáo Việt Nam, đồng thời chí thành khể thủ trước Đức Tăng Thống xin Giác linh Ngài cho phép chúng con bày tỏ nỗi lòng tôn thờ, kính yêu chí thành tha thiết của chúng con đối với đức hạnh cao cả và công nghiệp lãnh đạo sáng suốt trong nhiệm vụ thiêng liêng của Đức Tăng Thống đối với Giáo hội, với toàn thể Tăng tín đồ Phật giáo Việt Nam.
… Đức Tăng Thống đã ra đời trong thế kỷ trước, một thế kỷ suy tàn biến động và mất nước và Ngài đã vào Đạo trong thế kỷ này, trong một Tôn giáo tuy lớn lao nhưng cũng cùng số phận tủi nhục hẩm hiu chung của dân tộc. Với hoàn cảnh lúc bấy giờ khó mà có thể giúp được gì cho một công dân, một tu sĩ như Đức Tăng Thống để có cơ hội tiến lên xây dựng sự nghiệp cho bản thân, cho Dân tộc và cho Đạo pháp. Nhưng Đức Tăng Thống đã không tầm thường. Với ý chí và khả năng riêng, Ngài đã cùng các Thiện hữu Trí thức khác, được đào tạo và trưởng thành một cách đáng kính phục trong các Thiền lâm tôn nghiêm cổ kính của Giáo hội. Đặc biệt với giới đức, Ngài được đào tạo đến nổi Thân, Miệng, Ý hồn tồn đồng hóa với giới pháp. Chính giới đức này đã và mãi mãi là hào quang và Cam Lồ soi sáng và làm tươi mát cho Phật giáo, cho cả thế giới Phật giáo đang sống. Thật vậy, giới hạnh Đức Tăng Thống đã giữ Đạo dựng Đạo bằng cách tuân giữ huấn thị sau đây của Đức Phật, tuân giữ suốt một đời bằng một thế kỷ của mình:
“Tỳ ni tạng trụ, Phật pháp diệc trụ”. Đức Tăng Thống đã đóng góp lớn lao cho Phật giáo, cho thế giới Phật giáo đang sống chính là Giới pháp hiện thực ấy.
Đối với Đời: Đức Tăng Thống cũng đã giúp cho xứ sở, cho mọi người trong sự nghiệp giữ nước và dựng nước. Nhất là thời kỳ Đức Tăng Thống tại vị, đã lãnh đạo Giáo hội qua hai thời kỳ lịch sử đặc biệt của đất nước, đi đúng đường lối và truyền thống của lịch sử Phật giáo Việt Nam. Đức Tăng Thống đã ý thức và hành động phản ảnh qua các Thông điệp Phật đản sau ngày đất nước hòa bình thống nhất: Đức Tăng Thống đã kêu gọi Tăng Ni và Phật tử đoàn kết để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Lời kêu gọi ấy tuy đơn giản nhưng đã ảnh hưởng sâu xa và lâu dài đối với quảng đại quần chúng trong công cuộc kiến thiết xứ sở. Đó là một đóng góp nữa của Đức Tăng Thống cho Đời, qua tư thế và trách nhiệm tôn giáo của Đức Tăng Thống.
Với ngần ấy tinh thần, ngần ấy công đức mà chúng con vừa đê đầu trình lên còn lắm thiếu sót, lắm vụng về nhưng cũng đã nói lên phần nào lòng ngưỡng mộ thiết tha của chúng con đối với Đức Tăng Thống. Dĩ nhiên điều đó đã xúc phạm đến cá tính của Đức Tăng Thống, nhưng chắc chắn Đức Tăng Thống sẽ tha thứ cho chúng con, như Ngài đã tha thứ từ lâu như vậy.
… Sau hơn một thế kỷ thác tích nơi cõi đời đầy khó khăn đau khổ và bất trắc, hôm nay Đức Tăng Thống ra đi theo thệ nguyện: “Khứ lai tự tại” chúng con và tất cả tứ chúng của Giáo hội không khỏi đau buồn khi thấy Ca sa Đức Tăng Thống để lại đã in bóng trăng mờ, Tích trượng Đức Tăng Thống để lại đã thắm màu sương lạnh ! Từ nay, ngọn đèn thiền thất chong suốt canh dài, nhưng pháp tướng cao cả oai nghi, nằm, ngồi, đi lại sau giờ phóng tham thì còn đâu nữa ! Từ nay ánh trăng khuya lồng bóng kinh song lạnh lẽo thì vẫn còn đó, nhưng còn đâu người hành giả thường trầm tư mặc tưởng với Công án và Thoại đầu vi diệu của Thuyền Tôn ! Từ nay tìm đâu ra dáng dấp siêu trần của người truyền giáo cao cả trên bước đường Hoằng pháp độ sinh đây đó của vị Đạo sư khả kính! Từ nay, những đứa con thơ dại đang ăn nhằm trái đắng, uống lỡ thuốc cay trong lúc lão phụ đang đi về một phương trời xa xôi đâu rồi ! Thật không có gì rủi ro, đau buồn và bất hạnh hơn cho đàn con đó ! Chúng con chỉ mong Đức Tăng Thống y theo đại nguyện hội nhập Ta bà, hãy thương chúng con, hãy quay lại, nhìn lại chúng con.
Giờ này Đức Tăng Thống không còn nữa, Giáo hội mất đi một vị Đại Đạo sư tối tôn chí kính, tứ chúng mất đi một vị Cha lành phước trí vẹn tồn. Tổ đình Thuyền Tôn mất đi một cao túc truyền đăng xứng đáng nhất của Liễu Quán Tổ sư. Thật vậy, không ai không xúc động và ngậm ngùi trước cảnh “Sơn tồi hà yểm” của nhân thế thường tình. Ôi bao nhiêu mất mát, bao nhiêu đau đớn thiệt thòi ! Nhưng chúng con biết làm gì hơn để giữ mãi cho Giáo hội, cho chúng con một mảnh trăng tròn cuối tháng, một mùa Xuân sau chín chục ngày ! Chúng con làm sau giữ được một giọt nước Cam lồ, một đóa hoa Ưu đàm yêu quý còn mãi với chúng con ! Ôi Trăng mờ, Xuân mãn, nước chảy, hoa tàn, luật biến thiên bất tận muôn đời không riêng gì ai cả ! Chúng con chỉ còn lại nơi chúng con một niềm đau buồn vô hạn sau ngày Đức Tăng Thống ra đi không hạn ngày về ! Tuy nhiên, chúng con nghĩ rằng: Chư Phật ra đời vì hạnh nguyện độ sinh, khi nhơn duyên đã mãn Chư Phật đã thị hiện Niết bàn. Đức Tăng Thống cũng đã đến đây và ra đi cũng cùng hạnh nguyện ấy của một vị Bồ-tát: Đức Tăng Thống để lại chúng con đã và sẽ lấy đó làm lẽ sống cho Giáo hội chúng con. Chúng con nhất tâm đoàn kết để giữ gìn đường lối chỉ đạo nhất là các lời giáo huấn cuối cùng của Đức Tăng Thống để kế tục sự nghiệp giữ Đạo dựng Đạo, giữ Nước dựng Nước để lịch sử Phật giáo Việt Nam trong sáng muôn đời. Và những thệ nguyện chân thành thiết tha ấy mới mong đền đáp được phần nào ân pháp nhủ vô biên của Đức Tăng Thống đã giáo dưỡng chúng con trong tinh thần đạo giáo cao quý của Đức Bổn sư Từ phụ.
Chúng con nguyện: “Nhất tâm lãnh thọ, y giáo phụng hành” (Điệp xương và hòa chúng đồng thanh) và trong giờ phút trang nghiêm cuối cùng này, chúng con đồng lắng lòng bùi ngùi đưa linh giác Đức Tăng Thống nhẹ nhàng lên vân lộ xa xuôi đi vào chốn bất sanh bất diệt của Niết bàn và đưa nhục thân Đức Tăng Thống vào Bảo Tháp vô tung nơi an nghỉ nghìn thu của trần thế.
Chúng con đồng thành tâm phục nguyện: Linh minh nhất tánh, trực vãng Tây phương. Diệu tịnh tam ma, tốc thành Chánh giác, chứng vô sanh chi pháp nhẫn, nhập đại định ư chơn thừa, nguyện Chư Phật từ bi thọ ký, mong Đức Tăng Thống sớm trở lại độ sinh.
Nam mô Tự Lâm tế Chánh tôn Thuyền Tôn pháp phái tứ thập nhị thế, sung Việt Nam Phật giáo Thống Nhất Giáo hội Tăng Thống bảo vị húy Giác Nhiên Đại lão Hòa thượng liên tọa tiền tác đại chứng minh, thùy từ gia hộ (Điệp xướng và đồng hòa) tác đại chứng minh, thùy từ gia hộ.

---o0o---

4.ĐIẾU VĂN
của Ban Liên lạc Phật giáo Yêu Nước Tp. Hồ Chí Minh
(đọc trước giờ di Kim quan)

Trong khung cảnh thị hiện Niết bàn thanh tịnh, chúng tôi đại diện chư Tôn Hòa thượng giáo phẩm Chư Tăng Ni và đồng bào Phật tử, các Giáo hội, Giáo phái, Tổ chức Phật giáo trong Ban liên lạc Phật giáo yêu nước thành phố Hồ Chí Minh, cung kính đãnh lễ Giác linh Đức Đại lão Hòa thượng Cố Tăng Thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.
“Huyễn thân trong nhà mộng
Tướng dụng của chơn không
Muôn thuở trước không cùng
Bến bờ sau nào biết.”
Từ chơn thể, Giác tánh viên minh vốn an nhiên thường tịch, không có giả tướng ngã nhân, không có giả danh sinh tử. Nhơn phút tối sơ một niệm sai thù, muôn vàn vọng tưởng dấy lên, có hiện tượng khứ lai, có tướng sinh và tướng diệt.
Tuy nhiên, với bậc chân tu đạt đạo thì sinh nhi bất sinh, diệt nhi bất diệt. Sinh không phải chỉ hiện ra tướng có, nhưng ứng thân hóa độ chúng sinh không phải không. Diệt không phải biểu lộ tướng không, mà hiện cảnh Niết bàn tự tại giữa chốn trầm luân.
Đức Đại lão Hòa thượng vốn có duyên thâm hậu, trải hơn trăm xuân thu trụ xứ tại nhân gian, lại có duyên lành đồng chơn nhập Đạo, sớm phát tâm cát ái từ thân, mặc giáp xuất trần thượng sĩ.
Đáng kính thay ! Đời Ngài tử buổi sơ tân đến giờ phút hóa duyên đã mãn, là tấm gương lung linh chiếu sáng trong công phu tu thân hành đạo cho giới Tăng già và các giới đồng bào Phật tử.
Đức Đại lão Hòa thượng tiêu biểu cho Ngôi vị Tùng lâm Long tượng, nên cao uy mãnh Thích hãi Côn bằng, luôn luôn lấy giới đức tinh nghiêm làm thân giáo để răn dạy sách tấn kẻ hậu lai, thể hiện tinh thần Bi Trí Dũng trong công hạnh vị tha vô ngã, tận lực chuyên tâm vào sự nghiệp Hoằng dương chánh pháp, phục vụ nhân gian.
Nhớ lại thời kỳ Pháp nạn 1963, mặc dù Đức Đại lão Hòa thượng đã tuổi cao sức yếu, nhưng Ngài vẫn chổi gậy Kim cang, hướng dẫn đoàn Tăng Ni Phật tử Thành phố Huế đấu tranh chống lại chế độ bạo ngược Diệm Nhu tay sai Đế quốc Mỹ để bảo vệ Đạo pháp, đòi tự do dân chủ.
Năm 1973, Đức Cố Tăng Thống thiền nhiệm của Giáo hội mãn duyên hóa đạo, toàn thể Giáo hội đã cung kính suy Tôn Đại lão Hòa thượng lên kế vị ngôi Tăng Thống. Mặc dù tuổi đời xuân thu chồng chất, thế thượng nan phùng nhưng Ngài đã hoan hỷ lãnh sứ mệnh Đạo sư, thống lý chúng trung tôn, lãnh đạo Giáo hội làm nhiệm vụ truyền trì mạng mạch của Như Lai, tuyên dương Chánh pháp.
Hạnh nguyện của Ngài được truyền thị vào sứ mệnh dân tộc của chư Tôn Hòa thượng thuộc hàng lương đống trong ngôi nhà Đạo pháp của Giáo hội, là đẩy bánh xe Chánh pháp của Đức Phật chuyển lưu thuận giòng lịch sử phát triển của dân tộc để cùng xây dựng cuộc sống hạnh phúc và an lạc. Đó là hạnh nguyện lấy công đức phụng sự dân gian làm công đức trang nghiêm Đạo pháp.
… Trước chơn linh bậc tiền bối đồng môn, kẻ hậu tấn kính dâng Ngài công đức thừa truyền Tổ ấn. Nhờ triêm ân Tổ đức, hấp thụ tôn phong, Đại lão Hòa thượng Thích Tuệ Đăng, trên bước du phương hành đạo, đã khai sơn Tổ đình Thiên Thai tại Bà Rịa. Và từ nơi đây đã làm cho Tổ ấn môn phong của Tổ đình Thuyền Tôn này được cao quang vĩnh chấn khắp các Tỉnh phía Nam. Hầu hết các thế hệ môn đồ đều noi theo hạnh nguyện tổ tổ tương truyền làm rạng rỡ môn phong trong sự nghiệp truyền thừa Tổ đạo, hoằng hóa chúng sanh, phụng sự Tổ quốc.
Thiết nghĩ, Tổ Đạo truyền thừa tuy có phân chia ngủ điệp lưu phương, nhưng Chính pháp nhãn tạng vốn chỉ hiển bày nhất  hoa hiện thoại.
Xét về nền đạo Phật Việt Nam trải qua thời gian, không gian, có nhiều hình thức tổ chức, nhưng tựu trung vẫn cùng chung một truyền thống làm rạng rỡ Chánh đạo trong sự nghiệp phụng sự Tổ quốc, phục vụ Dân tộc, Hoằng dương Chánh pháp, đem lại lợi lạc cho quần sinh.
… Hôm nay Ngài về nơi tịch diệt, toàn thể Phật giáo đồ Việt Nam đà mất đi một bậc chân tu làm nơi nương tựa, chúng tôi thật vô cùng thương tiếc !
Nhưng đạo hạnh của Ngài vẫn làm cho những con chung của Đức Từ phụ hòa hợp thương yêu, đồng tâm nhất trí phục vụ Dân tộc, phụng sự Đạo pháp cùng với tồn dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa.
Nguyện Giác linh Đại lão Hòa thượng hội nhập pháp thân Từ bi chứng giám.

---o0o---

5.Cảm niệm

Nam-mô Lâm tế Chánh tôn Tứ thập nhị thế, Trùng kiến Thiên Thai Thuyền Tôn Tự, sung Tăng Thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, húy thượng Trừng hạ Thủy, tự Chí Thâm, hiệu Giác Nhiên đại lão Hòa thượng Giác linh.
Hôm nay một mùa xuân nữa trở lại, vạn vật thay màu đổi sắc tô điểm cho hồn vũ xinh thêm. Lại cũng thêm một mùa xuân, niềm tưởng nhớ đến ngày trở về tịnh lạc của đức cố đệ nhị Tăng Thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.
Vẫn biết rằng ứng thân tùy cơ, hố thân tùy cảm, nhưng trên trăm năm hiện hữu giữa cõi trần, với tám mươi hạ lạp, đức cố Tăng Thống đã để lại bao nhiêu di bảo tinh thần, nên nỗi nhớ khó phôi pha trong thâm tâm người hiếu đạo. Bởi thế, mỗi lần tiết Xuân hiện về là mỗi lần hàng Tăng Ni, Phật tử chịu ân pháp nhủ xa gần bừng lên niềm kính tưởng sùng tôn. Giờ đây núi Thiên Thai với rừng thông xanh biếc lộng gió ngàn phương, tịnh địa Thuyền tông với mái chùa cổ kính in niềm xót xa. Trước bảo tháp uy nghi với lời vàng quyện khói trầm nhang thoảng nhẹ hương thiền, tứ chúng qui tụ về đây để nghe lòng ấm lại sau một năm dài chen bước đạo đời. Trong khí thiêng thuyền vị này, chúng tôi xin ôn lại đôi nét cuộc đời ngài, để cho dấu Đạo phong qui cách trác luân tuyệt tú khỏi bị phai mờ mà hơn một thế kỷ làm người, ngài đã ban phát cho đàn hậu tấn noi theo.
Đảnh lễ bảo tháp hố thân là đảnh lễ công đức cao dày; thắp nén hương trầm là thắp nén tâm hương giới, định, tuệ để thù đáp thâm ân bất tư nghì thuyết.
Kính ngưỡng Giác linh đức đại lão Hòa thượng bên dòng Thạch Hãn xứ Quãng Trị nghèo nàn, gió nam non thổi bụi mù bay, đất Ái Tử cát vàng ngập nắng dạt dào trong tình hiếu tử thân yêu. Ngài đã thác sanh trong gia đình thượng tôn đạo học. Ngài tên thật là Võ Chí Thâm, sinh ngày 07-01 1878 (Mậu Dần). Lúc lên 7 tuổi ngài đã theo nho học, nhưng truyền thống Phật đạo mới là năng lực chính yếu thúc đẩy bao nhiêu người Việt và chính ngài sớm tìm về cõi Phật. Ngài đã xa quê từ nhỏ để tìm đến chùa Tây Thiên Di-Đà ở thành cố đô Huế, xin thọ giáo với Hòa thượng Tâm Tịnh. Trong tòng lâm Tây Thiên tịnh mặc, đồng tử Võ Chí Thâm được minh sư giáo dưỡng, đủ cơ duyên phát triển thiện căn, thẳng đường giác ngộ. Đối với ngài, một ánh chớp đầu ngày, một chiếc lá vàng bay, một cảnh ngộ thăng trầm lớn nhỏ…là cả một tư duy dằng dặc, và câu trả lời phải đổi bằng chí nguyện kiên trinh, mồ hôi nước mắt.
Suốt 23 năm tu học, thể nghiệm giáo lý Phật đà, mỗi ngày mỗi đưa ngài vào sâu lý đạo.
Năm 1910, ngài đến chùa Phước Lâm ở tỉnh Quảng Nam, cầu thọ Cụ túc giới với Hòa thượng Vĩnh Gia. Sau khi đắc giới, đạo pháp ngài càng củng cố sâu dày. Ý nguyện độ sanh bàng bạc khắp mỗi lời kinh mà ngài đã thâu thập được, khiến ngài không thể ngồi yên nhìn giáo pháp đấng Chí tôn mai một với những tâm niệm hẹp hòi vị kỷ khi đã nhận rõ: “Hoằng pháp thị gia vụ, lợi sanh vi sự nghiệp” (hoằng dương chánh pháp là việc nhà, lợi lạc quần sanh là sự nghiệp). Năm 1932 ngài đã cùng quí Hòa thượng Phước Huệ, Giác Tiên, Tịnh Hạnh và cư sĩ Lê Đình Thám, Trương Xướng đứng ra thành lập hội An Nam Phật học, tạo điều kiện hoằng pháp lợi sanh. Với chí nguyện và uy đức sẵn có, ngài đã liên tục giữ các chức vụ trọng yếu trong đạo: từ Chứng minh đạo sư của hội An Nam Phật học đến Hội trưởng Hội Phật giáo Trung phần; từ Trù trì chùa Quốc tự Túy Vân đến Trù trì Tổ đình Thuyền Tôn; từ Giám đốc Phật học đường Tây Thiên đến Viện trưởng Phật học viện Trung phần tại Nha Trang; từ Đàn đầu Hòa thượng tại giới đàn Hộ Quốc ở Nha Trang đến Đàn đầu Hòa thượng đại giới đàn Vạn Hạnh tại Từ Hiếu, giới đàn Vĩnh Gia ở Đà Nẵng; từ Tăng Cang Túy Ba đến Tăng Thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Trong chức vụ nào ngài cũng đều hành xử một cách nghiêm trang, đỉnh đạc, góp phần tích cực xây dựng vào công cuộc chấn hưng Phật giáo nước nhà qua nhiều giai đoạn khó khăn. Có thể nói đời ngài là mẫu đời một hành giả đã thể hiện trong cuộc sống với đạo lý “Vô ngôn nhi ngôn, vô hành nhi hành”. Nên bất cứ trách nhiệm Đạo pháp nào đưa đến, ngài cũng đều lãnh nhận một cách tự nhiên vô thủ vô xả, và cũng đều hồn thành một cách tự nhiên phi đắc phi thất. Một hình ảnh cảm động của ngài là lúc ngài đã 85 tuổi, với tấm thân ốm yếu già nua, với chiếc gậy mảnh khảnh cầm tay, ngài đã cùng các vị Trưởng lão Hòa thượng dẫn đầu cuộc biểu tình chiều ngày 14 -04 -1963 đòi chính quyền Ngô Đình Diệm thực thi chính sách bình đẳng Tôn giáo. Giữa năm 1975, sau khi miền Nam hồn tồn giải phóng, đất nước hồ bình thống nhất, ngài đã ra lời khuyên nhủ tứ chúng luôn luôn tăng trưởng đạo tâm huân tu tam học, áp dụng tinh thần Bách Trượng vào cuộc sống hằng ngày. Với hàng xuất gia, ngài đã dạy: “Tôi nay đã già rồi hơn 100 năm qua tôi đã sống và đã chứng kiến mỗi thay đổi của đất nước thân yêu. Với hàng xuất gia tôi thấy không gì hơn là sống Phạm hạnh, cho nên tôi chỉ mong hàng Phật tử xuất gia hằng sống hoan hỷ, hồ hợp trong Phạm hạnh, giữ gìn giới, định, tuệ để hành giúp đời”. Đối với hàng cư sĩ , ngài đã khuyếân dụ: “Tôi mong hàng Phật tử tại gia tu tâm, dưỡng đức, biết thương yêu mọi người, làm tròn trách nhiệm của mình đối với đạo, đối với đời để cùng nhau phát huy tinh thần từ bi trí tuệ của đạo Phật và xây dựng một nước Việt Nam vinh quang giàu mạnh”. Trong sự nghiệp tu hành, ngài luôn luôn kêu gọi Tăng .sĩ nên chú trọng cuộc sống nội tâm hơn là nghiêng hẳn về hình thức. Đạo Phật thực sự tồn tại không phải ở những hình thức chùa tháp, lễ nghi , kinh điển, mặc dầu kinh điển là chỉ nam dẫn ta đến đạo quả Vô thượng bồ-đề. Nhưng sự tồn tại đích thực của đạo là sự thực hiện đạo pháp! Nhưng những nếp sống gương mẫu của các bậc Tăng già nghiêm trì giới và tận lực phục vụ Chánh pháp mãi mãi tồn  tại ở thế gian và làm lợi ích cho chúng sanh.
Kính bạch Giác Linh đức cố Tăng Thống. Làm sao chúng con quên được đức độ cao thâm, đạo phong trác tuyệt, bình dị trầm hùng, lời từ hồ ái vững chắc, ý chí sáng suốt, kiên trì của ngài từng trải ra trước mắt và tâm cảnh của mọi người. Tuy đã trên trăm tuổi, nhưng thân thể khinh an, đi đứng đĩnh đạc, nói năng rõ ràng, không có những triệu chứng thường tình của các vị luống tuổi. Trái lại, ngài còn tọa thiền hằng giờ không biết mỏi mệt, sống đơn giản đầy vẻ thiền gia này là cả bài pháp hùng hồn cho chúng con noi dấu.
Đầu xuân năm 1979, ngày 04 tháng giêng năm Kỷ Mùi, ngài tiếp Hòa thượng Chánh thư ký Viện Tăng thống và Ban Đại diện Giáo hội Phật giáo Thừa Thiên đến chúc thọ đầu năm. Sau lễ chúc thọ, ngài đã ân cần đáp lễ với những lời đầu năm vô cùng xúc động: “ Tôi nay tuổi đã già rồi, tôi thấy sức khoẻ của tôi kém nhiều, chưa biết chừng sự chết sẽ đến nay mai. Nhân địp đầu năm, Hòa thượng cùng quí Thầy đến thăm tôi, tôi xin cám ơn và cầu Phật gia hộ Hòa thượng cùng quí Thầy nhiều sức khỏe, cố gắng kiên nhẫn trước mọi hoàn cảnh để phục vụ Giáo hội, dìu dắt Tăng Ni, tín đồ tu niệm. Tôi thật không có gì vui sướng hơn”. Nào ngờ mấy lời này trở thành lời chào vĩnh biệt!.
Giữa ngày mồng 5 thân thể khiếm an , rồi ngài an nhiên xả báo thân vào hồi 6 giờ 30 ngày 06 tháng giêng năm Kỷ Mùi (2-2-1979) hưởng thọ 101 tuổi đời và 69 hạ lạp.
Ngưỡng bạch Giác linh đức Đại lão Hòa thượng. Giờ đây, đã 3 mùa xuân trôi qua, hơn một ngàn ngày thoi đưa thấm thốt, ngài đã đi xa ngoài vạn dặm, nét hồng danh còn thắm hương thiền, đức cao dày ngừng trải Nhơn Thiên, đạo ngát toả rừng thiêng bể thẳm. Bây giờ tuy hoa xuân tròn nụ nhưng tâm xuân đã trống vắng rất nhiều, đồi Thiên Thai thông buồn reo gió, mái chùa thiêng phủ lớp rêu mầm, nhưng bóng vàng dằng dặc dứt tơ, nỗi nhớ tưởng hình bóng Cao Tăng thống xa mờ vạn dặm, quanh đây, âm tung thiền trượng vẫn còn nghe gõ nhịp trầm hùng, cây cỏ Thuyền Tôn còn vọng dấu hài lão chủ.
Xuân đưa người vào định,
Đương lai tác Phật thanh,
Khốc Pháp y lễ kính,
Xiêm phấn tỏa phai dần,
Y Ta-bà hóa mãn,
Trở bước cuộc vân du,
Về nguồn chơn linh cảm
Với trăm lẽ xuân thu.
Cây đại thụ rã cành,
Cỏ buồn khô tất bóng,
Lá sầu màu hết xanh,
Hoa ngậm ngùi lệ nóng.
Kính bạch Giác linh đức cố Hòa thượng. Giờ đây trước bảo tháp uy nghiêm, hiện thân Thánh chúng với trầm quyện gió đưa hương, hòa với lời kinh xuân cầu nguyện tha thiết. Chúng con trở về nương tựa ân sủng từ bi tươi nhuần đạo hạnh. Chúng con kính thành đảnh lễ tháp tín, chiêm ngưỡng di ảnh đức ngài để góp lời cầu nguyện đầu xuân đến muôn lòng an tịnh. Và ôn lại tiểu sử đời ngài là chuẩn bồi tư lương đức hạnh mà ngài đã ban cho để làm hành trang trên chặng đường huân tu đạo giáo.
Trong giờ phút trang nghiêm này, toàn thể Tăng, tín đồ Phật giáo hiện tại kính thành đảnh lễ bảo tháp uy nghiêm, hóa thân từ tịnh. Cúi xin Giác linh đại lão Hòa thượng gia bị cho con trọn hướng đường tu, và nguyện cầu một năm an bình đến khắp mọi bá tánh nhân dân.

Nam mô chứng minh sư Bồ-tát ma-ha-tát.

Đệ tử Thích Thiện Siêu

Contact Information

Phone
Array
Address Array
This entry was posted in . Bookmark the permalink.