Ni Trưởng Hải Bình Khiết Bạch

Personal Information

Danh Tánh
Ni Trưởng Hải Bình Khiết Bạch
Gender ♀️ Female

Hành Trạng

Additional Info

Ni trưởng Hải Bình Khiết Bạch (1839 - ?)
Chùa Tường Vân - Huế

Thế gian quan niệm rằng “Côn sơn phiến ngọc, Quế lâm nhất chi” có nghĩa là Ngọc là lồi đá quý trong núi đá, Quế là lồi cây quý trong rừng cây. Trong xã hội thì cũng tương tự như vậy.
Trong chốn tòng lâm, Ni tự và hàng Ni chúng cũng khá nhiều, nhưng có người trong đó giới hạnh tinh nghiêm, cần cù bái sám thì chưa có ai giống như Ni trưởng ở chùa Tường Vân, đó là hình ảnh một viên ngọc sáng, một cành quế đẹp.
Ni trưởng người Tống Sơn, con gái của Cai đội Cảnh Tất Nguyễn Cửu Phước. Ni sư sanh năm Kỷ Hợi Minh Mạng thứ 20 (1839), lúc Sư tuổi còn nhỏ (8 tuổi), đã vào cung làm thị nữ. Dực Anh Tông hoàng đế nhiều lần thương yêu vì thấy người có trí tuệ, học thức nhanh chóng lại là người đàn ca danh tiếng nhất trong cung.
Năm 25 tuổi Sư cầu thọ ký với Hòa thượng Huệ Cảnh, được ban pháp danh Hải Bình tự Khiết Bạch và đã được Hòa thượng khen là người tuổi nhỏ đã sớm giác ngộ, vì không thể xuống tóc nên chỉ ở trong cung thường xuyên tụng kinh bái sám, Ni trưởng được xem là người có thủ pháp tinh xảo về kết cấu phối âm tạo nhịp trong thơ văn; cũng như tinh thông thiền cơ, mật hạnh.
Năm Tự Đức 35 (1882) nước ta có đánh nhau ở An Nghiệp Đông Kinh, Sư đã hướng về chùa Hoằng Ân (trong tử cấm thành) kỳ đảo; đêm đó mộng thấy thần nhân bảo rằng chỗ ở của bầy ong bị phá rối gây huyên náo cả núi rừng đến nỗi chuột hoang, chồn cáo không còn chỗ ẩn náu, chúng nó làm sao để ta yên ổn được. Khi tỉnh dậy, tìm xem thì mới hay sự việc được tâu đúng như vậy, và lúc này sự việc đánh nhau không còn nữa. Một đêm khác, Ni trưởng lại mộng thấy thần bảo: “Vua thích con nuôi Thiện Công (về sau là Kiến Phúc) rồi xem lòng bàn tay bấm ngón cái và ngón vô danh ám chỉ cung Mùi cho biết vận vua đến đây là hết. Tỉnh dậy, tìm xem thì được biết đó là thần bảo vệ.
Thế rồi năm sau (Quý Mùi) - Vua mang bệnh trầm kha. Nghe lời sớ tâu của Trang Ý Hoàng thái hậu và Đoan Phi, vua ra lệnh cho Ni trưởng đến chùa Hoằng Ân cầu đảo; Sư chí thành khẩn thiết cầu nguyện nhưng lạ một điều tất cả pháp sự của Sư có vẻ đau buồn như có sự không tốt, và vua băng ở Ninh Lăng, sau đưa về Khiêm Cung.
Đầu năm Hàm Nghi (1885) theo lệ thường Ni trưởng được trở về bổn tự, cầu sư huynh là ngài Giáo thọ (tức ngài Linh Cơ) chứng minh cho Sư xuống tóc, ngài đã sắp xếp cho Sư làm hương đăng trong chùa để hầu Phật. Ngoài ra, đối với những người bệnh nặng, tinh thần bất an họ tìm đến chùa làm việc công quả, Sư cũng đã âm thầm hồi hướng cầu nguyện cho họ. Hơn 10 năm, Sư không hạ sơn, dân chúng ít khi thấy Ni trưởng. Ni trưởng chuyên trì kinh Pháp Hoa và không bỏ một buổi công phu sáng chiều nào.
Năm Thành Thái thứ 3 (1891), Ni trưởng vâng lệnh Hoàng thái hậu cho mời về Hoằng Ân tụng kinh cầu an được hiệu nghiệm nên đã được ban 1 y Ca-sa bảy màu có đính vàng còn mới.
Năm Thánh Thái thứ 6 (1894) Ni trưởng được thọ giới Tỳ-kheo-ni với Hòa thượng Diệu Giác tại giới đàn Báo Quốc.
Năm Thành Thái thứ 7 (1895) ngài Giáo thọ thấy tuổi Ni trưởng ngày càng cao Phật sự ngày càng chuyên cần mới cho nghỉ việc hương đăng để Ni trưởng biệt cư nơi hậu liêu tự lo công phu tu tập.
Đến năm ngoài 60 tuổi, do trì kinh Pháp Hoa, sức khoẻ ngày càng khoẻ thêm. Đức hạnh của Ni trưởng cũng có thể theo kịp với Diệu Thiện, Hải Hiền, đương thời có thể đứng đầu trong các Ni trưởng cao minh mô phạm cho Ni chúng.

Contact Information

Phone
Array
Address Array
This entry was posted in . Bookmark the permalink.