Quốc Sư Tung Nhạc Huệ An

Personal Information

Danh Tánh
Quốc Sư Tung Nhạc Huệ An - Khai Tổ Dòng Lão An,
Gender ♂️ Male

Hành Trạng

Additional Info

慧安, Ean, Hui-an (C), (582-709): vị tăng sống dưới thời nhà Tuỳ Đường, người vùng Chi Giang (支江), Kinh Châu (荆州),nay thuộc tỉnh Hồ Bắc-Trung Quốc, họ Vệ (衛), còn gọi là Lão An (老安), Đạo An (道安), Đại An (大安), người đời sau gọi lầm là Huệ An, nối pháp Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn và là một trong 10 vị đệ tử lớn của Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn (弘忍). Người đương thời gọi sư là “Lão An Quốc Sư”.
Sư có dung mạo đoan nhã, không hề nhiễm bụi trần, các pháp môn tu học thảy đều thông suốt.
Năm Khai Hồng thứ 17 (597), Tùy Văn đế cho khám xét về tư độ tăng ni (tăng ni được chánh quyền đã cấp cho độ điệp xuất gia) khắp trong nước. Khám Sư, Sư nói: “Chất phác, không tên tuổi”, rồi lánh vào hang núi.
Trong năm Đại Nghiệp (大業,605-617 - Tùy Dạng Đế), tổng phát động đinh phu khai thông kinh vận hà (khai thông cầu đường). Phu phen chết đói chồng chất lên nhau, Sư khất thực để cứu họ, số người cứu được rất đông. Dạng Đế cho mời, Sư không đi mà lẻn vào núi Thái Hòa. Lúc vua mến ở Giang Đô (tỉnh Giang Tô), tình hình trong nước nhiễu nhương, Sư bèn chống gậy lên chùa Hành Nhạc tu hạnh đầu đà.
Trong những năm Trinh Quán (貞 觀, 627-649 - Đường Thái Tông), Sư đến Hoàng Mai Sơn (黄 梅 山) tham yết Tổ Hoằng Nhẫn rồi được tâm yếu. Năm Lân Đức nguyên niên (663 - Đường Cao Tông), nhân du phương đến Thạch Bích núi Chung Nam rồi dừng trụ ở đó. Vua Cao Tông thường cho mời, Sư đều từ chối; Sư dạo khắp các danh tích rồi đến chùa Thiếu Lâm ở Tung Sơn, Sư nói: “Đây là nơi ta ở suốt đời”. Từ đó thiền giả tụ họp đông đúc.
Vào một đêm nọ của năm thứ 2 (699) niên hiệu Thánh Lịch (聖 曆) đời Võ Hậu, mưa gió dữ tợn, sư truyền thọ Bồ Tát giới cho thần Tung Sơn. Đến năm thứ 2 (706) niên hiệu Thần Long (神龍) đời vua Trung Tông, vua ban Tử Y cho sư, kính trọng như thầy, thường mời vào cung nội cúng dường trong vòng 3 năm.

*

Theo Truyền Đăng Lục, quyển V, một hôm có hai vị Tăng là Thản Nhiên và Hồi Nhượng đến tham vấn quốc sư Huệ An về ý chỉ của Đạt Ma Đông du. Huệ An đáp:
- Sao mấy ông không tự hỏi ý của mình là gì?
Thiên Nhiên và Hoài Nhượng thưa:
- Ý của tự mình là gì?
Huệ An đáp:
- Nên quán tác dụng mật.
Thiên Nhiên và Hoài Nhượng thưa:
- Tác dụng mật là gì?
Sư nhắm mở con mắt để chỉ dạy họ, như thế ngay lời nói biết trở về thì đâu còn chỗ thích hợp nào khác nữa. Nhưng cơ duyên Nhượng không hợp bèn từ giã Sư, đi Tào Khê.

*

Vũ hậu mời Sư đến kinh thành vua, đãi Sư theo lễ thầy trò. Sư và thiền sư Thần Tú càng được thêm kính trọng. Vũ hậu có lần hỏi tuổi tác Sư. Sư đáp:
- Chẳng nhớ.
Hậu hỏi:
- Sao lại không nhớ ư?
Sư đáp:
- Cái thân sanh tử nó tuần hoàn như vậy, luân chuyển không có sự bắt đầu và chấm dứt, cần nhớ làm gì?. Huống nữa tâm kia không ngừng làm môi giới tưới tẩm, từ cái thức ban đầu dẫn đến tướng thô động, thấy tâm sanh diệt như hòn bọt chỉ là vọng tưởng thôi. Hết sanh diệt rồi cũng chỉ như thế, có năm tháng nào đáng nhớ đâu?
Vũ hậu nghe qua cúi đầu lạy tín thọ.
Đến năm Thần Long thứ hai (706), vua Đường Trung Tông ban cho Sư ca sa tía. Mười bốn đệ tử đắc độ của Sư, vẫn được mời vào trong cung cấm cúng dường ba năm và ban cho mỗi vị một bộ y ma nạp.
Năm Cảnh Long (景 龍) thứ ba 709, Sư từ giã kinh đô trở về Tung Sơn Thiếu Lâm Tự (嵩 山 少 林 寺) , ngày 3 tháng 3 năm đó (709), dặn dò môn nhân:
- Sau khi ta chết, đem thây ta vô rừng, đợi dã hỏa (lửa ma trơi) thiêu.
Chốc lát thì Vạn Hồi Công đến gặp Sư, nắm tay Sư bàn luận càn rỡ, thị giả bên cạnh nghiêng tai lắng nghe đều không lãnh hội. Đến ngày mùng 8, Sư cho đóng cửa nằm an nghỉ và tịch.
Tuổi Sư là 128 (sanh năm nhâm dần, năm Tùy Khai Hồng thứ hai 582; mất năm kỷ dậu, năm Đường Cảnh Long thứ ba 709. Đương thời gọi Lão An Quốc Sư).
Môn nhân tuân theo lời dạy đem thây đặt trong rừng, quả thật dã hỏa thiêu tự nhiên, được 80 viên xá lợi. Trong đó có năm viên màu đỏ tía, được giữ ở trong cung.
Đến năm Tiên Thiên thứ hai 711, môn nhân xây tháp thờ.
Nối pháp của Sư có Phá Táo Ðọa, Nguyên Khuê.

Contact Information

Phone
Array
Address Array
This entry was posted in . Bookmark the permalink.