Additional Info
僧 璨; C: sēngcàn; J: sōsan; (?-606). Tổ truyền pháp thứ ba mươi của Thiền Tông Ấn Độ và là Tam Tổ của Thiền tông Trung Hoa.
Thiền Sư Trung Quốc sống vào đời Tùy, có thuyết nói là người ở Từ Châu. Ban đầu, với hình thức cư sĩ mắc bệnh ghẻ lở đến lễ Tổ Huệ Khả xin xám tội. Nhơn đó được ngộ đạo. Được Tổ cho thọ giới cụ túc tại Chùa Quang Phước, nhằm niên hiệu Thiên Bình thứ hai (536 TL) nhà Bắc Tề ngày 18 tháng 3. Sư theo hầu hạ Tổ được hai năm. Tổ truyền kệ và y bát bảo phải đi phương xa ẩn tránh kẻo có nạn. Sư đến ở ẩn nơi núi Tư Không, núi Hoàn Công thuộc Thơ Châu (Tiềm Sơn, An Huy). Bấy giờ sư đã hơn 40 tuổi.
Thời vua Vũ Đế nhà Bắc Chu hủy diệt Phật Pháp (574-578), sư lánh nạn đến ẩn ở núi Hoàn Công, người đời không ai biết. Năm Khai Hoàng 12 (592, năm Nhâm Tý) đời Tùy, ngài Đạo Tín, mới 14 tuổi, đến lễ sư cầu học:
- Mong Hòa thường từ bi, xin ban cho con pháp môn giải thoát.
Sư hỏi:
- Ai trói ngươi?
Đáp:
- Không có ai trói.
Sư nói:
- Sao còn cầu giải thoát ư?
Tín ngay lời nói đại ngộ, hầu hạ Sư chín năm.
[Tông Môn Thống Yếu ghi: Đạo Tín ngay lời có tỉnh.
Đạo Tín lại hỏi:
- Thế nào là tâm cổ Phật.
Sư bảo:
- Ông nay là tâm gì.
Thưa:
- Con nay vô tâm.
Sư bảo:
- Ông đã vô tâm, chư Phật há có ư.
Đạo Tín ngay đây dứt hết các nghi].
Sau khi thọ giới ở Kiết Châu, làm thị giả càng cẩn trọng. Sư bao phen đem pháp huyền vi xét nghiệm. Đến khi ngài Đạo Tín cơ duyên thuần thục, biết Tín tâm thuần bèn trao y pháp,
Kệ rằng:
Hoa chủng tuy nhân địa
Tòng địa chủng hoa sanh
Nhược vô nhân hạ chủng
Hoa địa tận vô sanh.
Dịch:
Giống hoa tuy nhờ đất
Từ đất giống hoa sanh
Nếu không người gieo giống
Hoa, đất đều không sanh
Sư lại bảo:
- Trước đây Huệ Khả Đại sư truyền pháp cho ta, rồi đi Nghiệp Đô hành hóa 30 năm mới viên tịch, nay có ông rồi, ta còn mắc mớ gì ở đây?
Rồi Sư đi du hóa hai năm ở La Phù Sơn (nay thuộc Quảng Đông). Sư lại trở về chỗ cũ (về Sơn Cốc Tự tại Thư Châu) hơn một tháng, sĩ dânnghe tin vội đến lập đàn trai lớn cúng dường. Sư quảng tuyên tâm yếu cho bốn chúng nghe, thuyết xong Sư đứng chắp tay dưới gốc đại thọ nơi pháp hội mà thị tịch.
Nhằm năm Đại Nghiệp thứ hai đời Tùy Dạng đế, ngày 15 tháng 10 năm bính dần 606. Vua Đường Huyền Tông ban thụy hiệu Giám Trí Thiền Sư và tháp hiệu Giác Tịch.
Sư thuyết pháp hơn 30 năm, chẳng hề nói tới tên họ và quê quán. Thường nói với Đạo Tín rằng: Nếu có người hỏi thăm, chớ bảo được pháp nơi ta.
Ngoài Thiền sư Ðạo Tín, Sư có truyền pháp cho Tì Ni Đa Lưu Chi, bảo về phương Nam hoằng hóa, người sau này đem Thiền tông sang Việt Nam.
Sư có tác phẩm: Tín Tâm Minh - một tác phẩm trứ danh, rất phổ biến trong giới thiền.
Tuệ Khả, Tăng Xán tục liền, Đạo Tín, Hoằng Nhẫn lục thiền Huệ Năng.” (Chân Nguyên – Thiền Tông Bản Hạnh).
[X. Cảnh Đức Truyền Đăng Lục Q.3; Phật Tổ Thống Kí Q.30; Ngũ Đăng Hội Nguyên Q.1; Long Hưng Phật Giáo Biên Niên Thông Luận Q.18].
*
Thời Sơ Đường (618-712), Lý Thường làm quan dỗn Hà Nam, vốn dĩ ngưỡng mộ Tổ phong và thâm đắc huyền chỉ. Vào năm ất dậu 745 niên hiệu Thiên Bảo, Lý gặp Hà Trạch Thần Hội, hỏi:
- Tam Tổ Đại sư táng ở chỗ nào?. Có người nghe Sư vào La Phù không trở lại, có người nói Sư nhập diệt ở Sơn Cốc, chưa biết ai đúng?
Hội đáp:
- Tăng Xán Đại sư từ La Phù trở về Sơn Cốc, được hơn một tháng mới thị hiện nhập diệt. Nay mộ Tam Tổ hiện có ở Thư Châu.
Thường chưa thể tin được việc đó. Sau gặp lúc bị đày làm quan biệt giá ở Thư Châu, nhân đó hỏi thăm chúng tăng ở chùa Sơn Cốc:
- Nghe nói sau chùa có mộ Tam Tổ phải không?
Lúc đó thượng tọa Huệ Quán đáp:
- Có việc đó.
Thường hân hoan cùng các liêu thuộc đến chiêm lễ, rồi quật mồ đem chơn nghi hỏa thiêu. Thu được 300 viên xá lợi ngũ sắc, lấy 100 viên xuất tiền lương mình xây tháp thờ tại đó, 100 viên gởi tặng Hà Trạch Thần Hội để xác chứng lời trước của Hội, 100 viên mang theo mình.
Về sau ở Lạc Trung, Tư Đệ thiết trai để chúc mừng, trong hội bấy giờ có nhóm tam tạng Kiền Na ở Tây Vực.
Thường hỏi Tam Tạng:
- Trong thiền môn Thiên Trúc có bao nhiều Tổ Sư?
Kiền Na đáp:
- Từ Ca Diếp đến Bát Nhã Đa La có 27 Tổ sư. Nếu theo trình tự, tính thêm bốn đời từ Đạt Ma Đạt, bàng xuất từ Sư Tử Tôn giả gồm 22 người, hết thảy có 49 Tổ sư. Nếu từ thất Phật đến Tăng Xán Đại sư đây, chẳng kể những chi nhánh phụ, gồm khoảng 37 đời.
Thường lại hỏi thêm, trong hội có kỳ đức đáp:
- Từng xem qua Tổ đồ, có cái dẫn ra trên 50 Tổ, cho đến những chi phái, tông tộc sai khác thì không định được số lượng, hoặc giả chỉ có hư danh lấy gì chứng nghiệm.
Lúc đó có thiền sư Trí Bổn là môn nhân Lục Tổ, đáp:
- Mới bắt đầu nhà Hậu Ngụy, Phật pháp suy dần, có sa môn Đàm Diệu trong tình thế lộn xộn dùng lụa sống một mình ghi lại được danh tự chư Tổ, có lẽ quên mất thứ tự. Ngài giấu y, lánh đời trong hang núi ở Lãnh Trung trải 35 năm, đến Văn Thành đế lên ngôi pháp môn mới trung hưng, sự nghiệp và tiếng tăm Đàm Diệu đều được tôn trọng. Rồi giữ chức tăng thống, tập hợp những sa môn bàn luận thêm và kết tập điều mục, làm thành Phó Pháp Tạng Truyện, trong đó có ít phần so le với nhau là do Đàm Diệu sợ hãi trong khi sao chép.
Và mười ba năm nữa, vua sai quan bác sĩ Quốc tử giám là Hồng Nguyên Chơn cùng các Ngài Tam tạng Bắc Thiên Trúc là Phật Đà Phiến Đa, Cát Phất Yên vv… nghiên cứu lại Phạn văn, xét duyệt chọn lựa đúng sự truyền thừa các Tổ sư theo tông chỉ và thứ tự, mới không còn sai nữa.
Kệ truyền pháp:
Hoa chủng tuy nhơn địa
Tùng địa chủng hoa sanh
Nhược vô nhơn hạ chủng
Hoa địa tận vô sanh.
Dịch:
Giống hoa tuy nhơn đất
Từ đất giống hoa sanh
Nếu không người gieo giống
Hoa, đất trọn không sanh.
---o0o---

Thiên Trụ Sơn, Tiềm Sơn
|