Additional Info
(s: Purjamitra, 不如蜜多). Tổ truyền pháp thứ hai mươi sáu của Thiền Tông Ấn Độ.
Theo Phật Tổ Truyền Thừa Ký. Ngài là con của vua Đắc Thắng ở nam Ấn Độ. Sau khi vị tổ thứ 25 là Bà Xá Tư Đa được pháp, ngài đi đến miền nam Ấn Độ để truyền đạo. Lúc đó vua Đắc Thắng tin thờ ngoại đạo, gây nạn cho Bà Xá Tư Đa, thái tử Bất Như Mật Đa dâng lời can ngăn liền bị bỏ tù. Nhà vua muốn buộc tội truyền tà pháp để giết ngài nhưng khi hỏi ngài về lí Phật thì vua bị ngài chiết phục, lúc ấy vua mới hối lỗi và lễ lạy, đồng thời ra lệnh tha thái tử Bất Như Mật Đa. Thái Tử Bèn xin xuất gia, và sau sáu năm được ngài Bà Xá Tư Đa trao phó Đại Pháp và trở thành vị tổ thứ hai mươi sáu.
Sau khi được pháp, ngài Bất Như Mật Đa đến miền đông Ấn Độ Giáo hóa, vua nước ấy tên là Kiên Cố, tin theo ngoại đạo là Phạm Chí Trường Trảo (Phạm Chí để móng tay dài), khi ngài sắp đến, vua và chúng Phạm Chí đều thấy bạch khí xông khắp trời đất. Vua hỏi:
- Đó là điềm lành gì?
Phạm Chí dự biết ngài đang nhập cảnh, sợ nhà vua ngã về phía thiện, bèn đáp:
- Đó là điềm ma đến đấy. Có gì là lành đâu?
Rồi Phạm Chí cho họp các đồ chúng lại, bàn rằng:
- Bất Như Mật Đa sắp vào đô thành, người nào có thể ngăn hắn lại?
Các đệ tử thưa:
- Chúng tôi mỗi người có chú thuật, có thể gây chấn động trời đất vào nước vào lửa được, lo gì chứ?
Ngài đi tới, trước hết thấy tường vách của hồng cung có khí màu đen, bèn nói: “Tiểu nạn thôi”. Rồi thẳng đến cung xin yết kiến vua. Vua hỏi:
- Thầy đến đây để làm gì?
Ngài đáp:
- Để độ chúng sanh.
Hỏi:
- Dùng pháp gì để độ?
Ngài đáp:
- Tùy theo mỗi loại chúng sanh mà độ họ.
Bấy giờ chúng Phạm Chí nghe Tổ nói, không kềm được sự phẫn nộ, liền dùng huyễn pháp hóa ra hòn núi lớn ở trên đỉnh đầu của ngài. Ngón tay ngài chỉ bọn Phạm Chí thì hòn núi chợt ở trên đầu bọn Phạm Chí, chúng Phạm Chí hoảng sợ xin tha mạng. Ngài xót thương họ mê lầm, lại chỉ ngón tay thì hòn núi biến hóa kia tan mất, rồi diễn thuyết pháp yếu khiến nhà vua hướng đến chơn thừa. Trong khoảng 60 năm sau đó, ngài vẫn hoằng pháp tại vùng đất này.
Sau ngài nói với vua:
- Nước này sẽ có thánh nhân thừa kế tôi.
Bấy giờ trong nước có con trai nhà Bà La Môn tuổi khoảng 20, còn nhỏ mà cha mẹ đã mất, chẳng biết tên họ là gì. Có lúc y tự xưng là Anh Lạc nên người đời gọi là đồng tử Anh Lạc, đồng tử đi lang thang trong làng mạc ăn xin sống qua ngày, đại khái như Bồ tát Thường Bất Khinh vậy.
Có người hỏi:
- Sao anh đi nhanh vậy?
Liền đáp:
- Sao anh đi chậm vậy?
Có người hỏi:
- Anh họ gì?
Bèn đáp:
- Cùng họ với anh.
Không ai biết anh làm gì. Về sau, có lần vua và ngài đi cùng xe ra khỏi thành, gặp đồng tử Anh Lạc đứng trước xe làm lễ. Ngài hỏi:
- Ông còn nhớ việc xưa chăng?
Đáp:
- Tôi nhớ trong kiếp xa xưa cùng pháp hội với thầy, thầy diễn Ma Ha Bát Nhã, tôi giảng Tu Đa La (Kinh) thậm thâm. Việc gặp lại hôm nay cũng hợp với nhân xưa.
Ngài lại nói với vua:
- Đồng tử này chẳng phải ai khác, chính là Bồ tát Đại Thế Chí. Sau vị Thánh này lại có hai vị thánh ra đời: một vị giáo hóa Nam Ấn độ, một vị có duyên ở nước Chấn Đán (Trung Hoa) nhưng trong chín năm lại trở về xứ này.
Do nhân xưa, ngài đặt tên Bát Nhã Đa Lavà truyền pháp nhãn tạng.
Kệ rằng:
Chơn tánh tâm địa tàng
Vô đầu diệc vô vĩ.
Ứng duyên nhi hóa vật
Phương tiện hô vi trí.
Dịch:
Chơn tánh ẩn tâm địa
Không đầu cũng không đuôi
Ứng duyên mà hóa vật
Phượng tiện gọi là trí
Ngài truyền pháp xong, từ giã vua:
- Tôi hóa duyên đã mãn sẽ quy về tịch diệt. Đối với pháp tối thượng thừa mong vua chớ quên việc ngoại hộ.
Nói xong, Tổ hiền trở lại chỗ ngồi cũ, ngồi kiết già và tịch, hóa lửa tự thiêu. Vua thu xá lợi xây tháp chôn cất.
Nhằm nhà Đông Tấn vua Hiếu Vũ đế, năm Thái Nguyên thứ 13, năm Mậu Tý (388 công nguyên). [X. Tổ Đường Tập Q.2; Bảo Lâm Truyện Q.6; Cảnh Đức Truyền Đăng Lục Q.2].
Kệ truyền pháp:
Chơn tánh tâm địa tàng
Vô đầu diệc vô đuôi
Ứng duyên nhi hóa vật
Phương tiện hô vi trí.
Dịch :
Kho tâm địa chơn tánh
Không đầu cũng không đuôi
Hợp duyên tùy hóa vật
Phương tiện gọi là trí.
|