Tổ Thứ 28 – Tôn Giả Bồ Đề Đạt Ma

Personal Information

Danh Tánh
Tổ Thứ 28 - Tôn Giả Bồ Đề Đạt Ma - Sơ Tổ Thiền Tông Trung Hoa
Gender ♂️ Male

Hành Trạng

Additional Info

菩提達磨, Bodhidharma, (470-543). Tổ truyền pháp thứ hai mươi tám của Thiền Tông Ấn Độ và là Sơ Tổ của Thiền tông Trung Hoa.
Xưa kia người ta viết chữ Ma là 摩, nhưng về mặt truyền thống thì viết là 磨. Các học giả Cận Đại thì viết là 磨, khi xem Đại Sư như là vị Tổ sư; còn viết là 摩 khi xem như là nhân vật lịch sử.
Theo hệ thống truyền đăng của Thiền Tông, Đại Sư là vị Tổ thứ 28 của Tây Thiên (Ấn Độ), và là sơ Tổ của Thiền Tông Trung Hoa. Những truyền ký về Đạt Ma thì xưa nay đều y cứ vào bản Cảnh Đức Truyền Đăng Lục (景德傳燈錄, năm 1004) cũng như Bồ Đề Đạt Ma Chương (菩提達磨章); nhưng theo những nghiên cứu gần đây, người ta có khuynh hướng cấu thành truyền ký về ngài dựa trên những tư liệu xưa hơn hai tư liệu vừa nêu trên. Tư liệu về Đạt Ma Truyện thì có nhiều loại như Lạc Dương Già Lam Ký (洛陽伽藍記, năm 547), Đàm Lâm Nhị Chủng Nhập (曇琳二種入, khoảng năm 600), Tục Cao Tăng Truyện (續高僧傳, năm 645), Truyền Pháp Bảo Ký (傳法寳記, khoảng năm 712), Lăng Già Sư Tư Ký (楞伽師資記, khoảng năm 713, 716), Lịch Đại Pháp Bảo Ký (歷代法寳記, khoảng năm 774), Bảo Lâm Truyện (寳林傳, năm 801), Tổ Đường Tập (祖堂集, năm 952), v.v. Thông qua Bảo Lâm Truyện từ đó các ký lục của Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, Truyền Pháp Chánh Tông Ký (傳法正宗記, năm 1061), v.v., được hình thành. Lại nữa, chúng ta cần phải lưu ý đến những văn bản như Nội Chứng Phật Pháp Tương Thừa Huyết Mạch Phổ (內證佛法相承血脈譜, năm 819) của Tối Trừng (最澄, Saichō), Bồ Đề Đạt Ma Nam Tông Định Thị Phi Luận (菩提達摩南宗定是非論, năm 732), Vấn Đáp Tạp Chưng Nghĩa (問答雜徴義) của Thần Hội (神會), rồi Thiền Môn Sư Tư Tương Thừa Đồ (禪門師資相承圖), Thiền Nguyên Chư Thuyên Tập Đô Tự (禪源諸詮集都序), Viên Giác Kinh Đại Sớ Sao (圓覺經大疏鈔) của Tông Mật (宗密). Từ đó, xét về tiểu sử của Đạt Ma, ta thấy rằng Đại Sư sanh ra ở nước Ba Tư (波斯) hay Nam Thiên Trúc (南天竺). Theo như tài liệu mới thành lập sau này cho thấy rằng ngài là người con thứ 3 của quốc vương nước này.
Khi Tôn giả Bát Nhã Đa La (s: Prajñātara, 般若多羅, Prajñātāra)1Tôn giả Bát Nhã Đa La: Tổ thứ hai mươi bảy.sang Nam Ấn hoằng hóa, vua Hương Chí thỉnh về cung cúng dường, bảo ba vị Thái Tử ra đảnh lễ Tôn giả. Ngài biết ba vị Thái Tử đều ham tu, muốn nghiệm thử trí mỗi người thế nào. Sẵn nhà vua cúng dường hạt châu quý vô giá, Ngài lấy ra hỏi:
- Ở đời còn có vật gì quý báu bằng hạt châu này chăng?
Con trưởng là Nguyệt Tịnh thưa:
- Hạt châu nầy quý tột, ở đời không có gì hơn nó, chẳng phải trong nhà vua thì làm gì có hạt châu nầy.
Con thứ là Công Đức Đa La cũng đồng ý như vậy.
Riêng Bồ Đề Đa La thưa:
- Châu nầy là của báu thế gian chưa đủ làm tột, trong các thứ báu chỉ có pháp bảo là tột. Đây là ánh sáng của thế gian, trong các thứ ánh sáng chỉ có ánh sáng trí tuệ là tột. Đây là trong sạch của thế gian, trong các thứ trong sạch, chỉ tâm trong sạch là trên hết. Nhưng ánh sáng của hạt châu nầy không thể tự chiếu, cần nhờ ánh sáng trí tuệ mới biện biệt được nó. Đã biện rõ mới biết là châu, đã biết là châu mới hiểu cái quý báu của nó. Nếu hiểu cái quý báu của nó, thì nó báu mà không biết báu. Nếu biện rõ nó là châu, thì nó châu mà chẳng tự biết châu. Châu mà chẳng tự biết châu, cần nhờ trí châu mới biện được thế châu. Báu mà chẳng tự biết báu, cần nhờ trí bảo mới rõ pháp bảo. Song mà, thầy tôi có đạo thì báu kia liền hiện. Chúng sanh có đạo thì tâm báu cũng thế.
Tôn giả Bát Nhã Đa La khen ngợi tài biện luận của Bồ Đề Đa La.
Tổ lại hỏi thêm:
- Trong các vật, vật gì không tướng?
Thưa:
- Trong các vật, chẳng khởi là không tướng.
Tôn giả hỏi:
- Trong các vật, vật gì là tối cao?
Thưa:
- Trong các vật, nhơn ngã là tối cao.
Tôn giả hỏi:
- Trong các vật, vật gì là tối đại?
Thưa:
- Trong các vật, pháp tánh là tối đại.
Tôn giả thầm vui biết là đại pháp khí sẽ nối dõi sau nầy.
Về sau, Tôn giả gọi Bồ Đề Đa La đến dặn dò:
- Đại pháp nhãn tạng của Như Lai lần lượt truyền trao, nay ta trao cho ngươi, ngươi khéo truyền bá chớ cho đoạn dứt. Nghe ta nói kệ:
Tâm địa sanh chư chủng
Nhơn sự phục sanh lý
Quả mãn bồ đề viên
Hoa khai thế giới khởi.
Đất tâm sanh các giống
Nhơn sự lại sanh lý
Quả đầy bồ đề tròn
Hoa nở thế giới sanh.
Sau khi Bồ Đề Đa La đắc pháp với Tôn giả Bát Nhã Đa La. Tôn giả bảo rằng:
- Ông đối với các pháp đã uyên bác. Đạt Ma là nghĩa thông suốt sâu rộng vậy, nên gọi là Đạt Ma.
Nhân đó đổi như tên hiện nay.

*

Tổ hỏi Tôn giả:
- Con nên đến nước nào để làm Phật sự.
Tôn giả bảo:
- Ông tuy đắc pháp, chưa thể đi xa. Hãy ở Nam Thiên Trúc, đợi sau khi ta diệt độ 67 năm, nên đến nước Chấn Đán, bày lập thuốc đại pháp, chỉ tiếp người thượng căn, cẩn thận chớ đi gấp, hễ đi vội sẽ làm suy tổn cho các nước viễn đông.
Tổ lại hỏi:
- Nơi kia có đại sĩ kham làm pháp khí chăng?. Ngàn năm sau có bị làm khó dễ chăng?.
Tôn giả bảo:
- Nơi ông giáo hóa, người được bồ đề không thể kể hết. Sau khi ta diệt độ hơn sáu mươi năm, nước kia gặp nạn, chỉ chuộng bề ngoài không trọng lẽ thật, ông khéo tự hàng phục. Ông đến phương nam chớ ở lại, kia chỉ thích việc hữu vi, chẳng thấy lý Phật. Ông dù đến đó, cũng chẳng thể lưu lại lâu.
Nghe ta nói kệ:
(Tổ Bát Nhã Đa La lại diễn thuyết tám bài kệ, đều dự sấm sự thạnh suy của Phật giáo, sự tích ghi đủ trong Bảo Lâm Truyện và Thánh Trụ Tập).
Lộ hành khóa thủy phục trùng dương
Độc tự thê thê ám độ giang
Nhật hạ khả lân song tượng mã
Nhị chu nộn quế cửu xương xương.
Dịch:
Đường đi vượt biển lại gặp Dương2Dương羊: chỉ Dương Thành là Quảng Châu ngày nay

Riêng tự vội vã thầm qua sông
Kinh đô khả thương đôi tượng mã
Hai cây còn non3Nhị chu 二株: hai cây, chiết tự của chữ lâm 林; Nộn quế 嫩桂 ý còn non (thiếu 少). Sau này giải ý là Thiếu Lâm.thịnh lâu dài.
Tổ lại hỏi rằng:
- Từ đây về sau có việc gì?
Tôn giả đáp:
- Từ đây đến một trăm năm mươi năm có chút nạn. Nghe ta nói kệ:
Tâm trung tuy cát ngoại đầu hung
Xuyên hạ tăng phòng danh bất trúng
Vi ngộ độc long sanh Vũ tử
Hốt phùng tiểu thử tịch vô cùng
Dịch:
Trong tâm tuy tốt việc ngoài lại xấu
Sông trên tăng phòng tên chẳng dung4Nguyên văn chữ Hán câu này là 川下僧房名不中 Theo chú giải người đời gọi tăng phòng 僧房 là ấp邑. Sông (xuyên 川) trên tăng phòng là chữ Ung 邕. Hậu Chu Văn đế là Vũ Thái Ung 秦邕

Vì gặp rồng dữ sanh con Vũ
Chợt gặp năm chuột, lặng vô cùng5Vì gặp rồng dữ sanh con Vũ, (pháp nạn Vũ Đế)
[578 Mậu Tuất Chu Vũ Đế băng, Dương Kiên cho hoạt động Phật giáo trở lại vào năm Canh Tí (580). Mời cao tăng Pháp Tạng khôi phục lại đạo Phật] Pháp Tạng (546-629) Cao tăng thời Tùy Đường. Người Dĩnh Xuyên Dĩnh Âm, họ Húc荀. Xuất gia năm 22 tuổi. Gặp pháp nạn Bắc Chu, Sư ẩn ở núi rừng. Khi Tùy Văn Đế khôi phục Phật giáo, Sư ra giúp.
Lại hỏi:
- Sau này thế nào?
Tôn giả bảo:
- Sau hai trăm hai mươi năm, tùng lâm6Lâm hạ 林下 hiểu là tùng lâm cũng có thể hiểu là nơi Thiếu Lâm.có một người đắc đạo quả.
Nghe ta sấm ký:
Chấn Đán tuy khoát vô dị lộ
Yếu giả nhi tôn cước hạ hành
Kim kê giải hàm nhất lạp mễ
Cung dưỡng Thập phương La hán tăng.
Dịch:
Chấn Đán tuy rộng, không đường khác7Không đường khác (vô dị lộ) giải đoán là chỉ có một con đường, tức là Đạo Nhất (tên của Mã Tổ)

Cần nhờ con cháu, dưới gót chân đi
Kim kê biết ngậm một hạt thóc
Cúng dường Thập phương La hán8Chùa La Hán tại huyện Thập Phương (Hán Châu, Tứ Xuyên) nơi Mã Tổ Đạo Nhất xuất gia. Bài kệ này ý chỉ Mã Tổ Đạo Nhất, người kế thừa Nam Nhạc Hoài Nhượng và là đầu nguồn tông Lâm Tế về sau.tăng.

*

Tổ cung kính vâng theo lời dạy. Hầu cận thầy bốn mươi năm. Đến khi Tôn giả tịch, Tổ mới giáo hóa rộng rãi trong nước.
Bấy giờ có hai thầy: một người tên là Phật Đại Tiên, một người tên là Phật Đại Thắng Đa. Hai người này trước đã cùng tổ học pháp thiền quán tiểu thừa với thầy Phật đà Bạt đà. Phật Đại Tiên đã gặp Tôn giả Bát Nhã Đa La, vượt tiểu hướng đại thừa nên cùng tổ giáo hóa, khi ấy có biệt hiệu là “hai cửa cam lộ”.
Nhưng Phật Đại Thắng Đa lại chia đồ chúng làm sáu tông: Thứ nhất là tông Hữu tướng, thứ hai là tông Vô tướng, thứ ba là tông Định huệ, thứ tư là tông Giới hạnh, thứ năm là tông Vô đắc, thứ sáu là tông Tịch tĩnh. Mỗi tông bảo thủ kiến giải của mình, triển khai riêng nguồn giáo hóa, đồ chúng anh tài tụ tập rất thạnh.
Tổ bùi ngùi than:
- Chỉ có một thầy kia mà đã vùi lấp dấu trâu, huống chi lại chi ly đông đúc phân làm sáu tông. Làm sao ta không trừ tà kiến ràng rịt họ mãi được?
Nói xong Tổ ngầm hiện thần lực đến chỗ của tông thứ nhất Hữu tướng, hỏi:
- Thế nào gọi là thật tướng của tất cả các pháp?
Trong chúng đó có một tôn trưởng là Tát Bà La trả lời:
- Ở trong các tướng mà chẳng liên kết với các tướng, gọi đó là thật tướng.
Tổ nói:
- Ở trong tất cả các tướng mà chẳng liên kết với các tướng, nói thật tướng như thế thì làm sao xác định đúng nó ư?
Kia đáp:
- Ở trong các tướng mà thật ra không có cái để xác định, làm thế nào xác định các tướng mà bảo là thật được?
Tổ nói:
- Trong các tướng mà bất định (không xác định) mới gọi là thật tướng, nay ông bất định phải làm sao đắc nó?
Kia đáp:
- Tôi nói các tướng bất định bất thuyết, chính là nói về các tướng mà nghĩa nó cũng như thế.
Tổ nói:
- Ông nói bất định chính là thật tướng, vì xác định “cái bất định” nên “cái bất định” tức chẳng phải thật tướng.
Kia nói:
- Xác định “cái đã bất định” thì cái bất định tức chẳng phải thật tướng, vì biết “ngã chẳng phải” nên bất định bất biến.
Tổ hỏi:
- Nay ông bất biến, gọi gì là thật tướng? (Các tướng) Đã biến đổi đã đi qua, nghĩa kia (thật tướng) cũng như thế ư?
Kia đáp:
- Bất biến đang còn (tại) vì “còn chẳng còn”, cho nên thật tướng biến hóa để xác định nghĩa kia.
Tổ hỏi:
- Thật tướng bất biến, biến tức chẳng thật. Trong các pháp hữu vô gọi gì là thật tướng?
Tâm Tát bà la biết đây là thánh sư lý giải không còn vướng mắc, thầm đạt đến chỗ sâu kín, bèn đưa tay chỉ hư không, hỏi:
- Đây là thế gian hữu tướng cũng có thể không (hóa rỗng), chính thân tôi đây được như vậy không?
Tổ đáp:
- Muốn hiểu thật tướng tức là thấy phi tướng. Nếu rõ phi tướng thì sắc kia cũng như thế, chính ở trong sắc chẳng mất đi thể của sắc vì trong phi tướng chẳng ngại (tướng) có (không). Nếu hay hiểu như thế, đó gọi là thật tướng.
Chúng kia nghe qua tâm ý sáng suốt, kính lễ tín tâm thọ trì.

*

Giây lát Tổ lại biến mất, đến chỗ tông thứ hai Vô tướng. Tổ hỏi:
- Các ông nói vô tướng, chính ai chứng đó (vô tướng)?
Trong chúng này, có người trí là Ba-la-đề đáp:
- Tôi tỏ rõ vô tướng vì tâm (vọng) chẳng hiện hành (sanh khởi).
Tổ hỏi:
- Tâm ông chẳng hiện hành, chính ai tỏ rõ đó (chẳng hiện)?
Kia đáp:
- Tôi tỏ rõ vô tướng thì tâm không thủ xả, đang lúc tỏ rõ cũng không có ai tỏ rõ.
Tổ nói:
- Đối với các tướng hữu vô mà tâm chẳng thủ xả, lại không có ai tỏ rõ chúng vì là không.
Kia nói:
- Nhập tam muội của Phật lại vô sở đắc, huống chi vô tướng mà muốn biết nó.
Tổ hỏi:
- Đã chẳng biết tướng thì ai nói là hữu vô? Vả vô sở đắc thì gọi gì là tam muội?
Kia đáp:
- Tôi nói không chứng nghĩa là chứng “cái không chỗ chứng”, vì chẳng phải (phi) tam muội nên tôi nói tam muội.
Tổ hỏi:
- Phi tam muội, thì ai đang gọi đó (phi tam muội)?. Ông đã chẳng (bất) chứng, chẳng phải (phi) chứng thì chứng cái gì?
Ba La Đề nghe Tổ biện luận giải thích liền ngộ bổn tâm. Lễ tạ Tổ và sám hối lỗi lầm trước.
Tổ thọ ký:
- Ông sẽ đắc quả, không lâu chứng tam muội. Xứ này có ngoại đạo, chẳng bao lâu ông sẽ hàng phục nó.

*

Nói xong Tổ bỗng nhiên biến mất, đến trụ sở của tông thứ ba Định huệ.
Tổ hỏi:
- Các ông học định huệ, định huệ là một hay là hai?
Trong chúng này có người tên là Bà Lan Đà đáp:
- Định huệ của chúng tôi đây, chẳng một chẳng hai.
Tổ hỏi:
- Đã chẳng phải một chẳng hai, gọi gì là định là huệ?
Kia đáp:
- Đang định chẳng phải chỗ định, nơi huệ chẳng phải chỗ huệ; một tức chẳng phải một, hai cũng chẳng hai.
Tổ nói:
- Đang khi một chẳng một, đang khi hai chẳng hai. Đã chẳng phải định chẳng phải huệ thì đại khái là định, huệ nào?
Kia đáp:
- Định huệ hay biết chẳng một chẳng hai, chẳng phải định chẳng phải huệ cũng lại như vậy.
Tổ hỏi:
- Vì huệ chẳng ngồi định, nhưng ai biết đây?. Chẳng một chẳng hai thì ai định ai huệ?
Ba Lan Đà nghe được, tâm nghi cởi mở như băng tan.

*

Tổ đến chỗ tông thứ tư Giới hạnh. Tổ hỏi:
- Cái gì gọi là giới? Thế nào gọi là hạnh? Đang lúc thực hành giới hạnh thì giới, hạnh là một hay là hai?
Trong chúng này có một hiền giả đáp:
- Một hai hai một đều do kia sanh, y theo giáo mà vô nhiễm đó gọi là giới hạnh.
Tổ nói:
- Ông nói “y theo giáo” tức là có nhiễm, một hai đều phá sao nói là y theo giáo?. Cái hai đó là sai trái bất cập đối với hạnh, trong ngồi chưa sáng sao gọi là giới?
Kia đáp:
- (Có) Ngã (thì) có nội ngoại, tự kỷ9Tích bản y cứ Quảng Đăng, chữ kỷ ghi là dĩ ; Thiệu bản y cứ Bảo Lâm ghi là chữ vô; Hồng Cựu bản ghi là chữ dĩ ; Chánh Tông Ký ghi là chữ dĩ . Chưa biết ai đúng.kia biết hết nội ngoại, đã thông đạt kia rồi mới là giới hạnh. Nếu nói là sai trái (hoặc) đều đúng đều sai, mà lời nói theo kịp thanh tịnh thì chính là giới là hạnh.
Tổ hỏi:
- (Bảo) Đều đúng đều sai thì nói gì là thanh tịnh?. Đã thông đạt rồi thì bàn gì là nội ngoại?
Hiền giả nghe đó liền tự thẹn mà phục Sư.

*

Tổ đến chỗ tông thứ năm Vô đắc. Tổ hỏi:
- Các ông chủ trương vô đắc, làm sao được vô đắc ư?. Đã không có sở đắc mà còn đắc vô đắc.
Trong chúng này có người tên Bảo Tĩnh đáp:
- Tôi nói vô đắc chẳng phải đắc vô đắc, chính là nói “đắc được” cái vô đắc, đó là đắc.
Tổ nói:
- Đắc đã là chẳng đắc (bất đắc), mà đắc cũng là chẳng phải đắc (phi đắc), rồi lại nói “đắc được”. Làm sao có thể đắc được (đắc đắc)?
Kia đáp:
- Thấy được thì chẳng phải đắc, chẳng phải đắc là đắc. Nếu thấy không được thì gọi là “đắc được”.
Tổ nói:
- Đắc đã chẳng phải đắc, không có đắc “đắc được”, đã không có sở đắc thì chính lúc đó “đắc được” gì?
Bảo Tĩnh nghe qua liền dứt hết lưới nghi.

*

Tổ đến chỗ tông thứ sáu Tịch tĩnh. Tổ hỏi:
- Thế nào gọi là tịch tĩnh? Ở trong pháp hội này ai tịch ai tĩnh?
Trong đây có Tôn giả đáp:
- Tâm ấy chẳng động gọi là tịch, nơi pháp không nhiễm gọi đó là tĩnh.
Tổ hỏi:
- Bổn tâm chẳng tịch nên cần mượn tịch tĩnh, xưa nay vốn tịch thì cần gì tịch tĩnh?
Kia đáp:
- Vì (bổn tâm) không không nên chư pháp vốn rỗng không, do không không đó nên gọi là tịch tĩnh.
Tổ nói:
- Không không đã rỗng không, các pháp cũng như thế. Tịch tĩnh vô tướng thì có cái nào tĩnh cái nào tịch?
Tôn giả kia nghe Tổ chỉ dạy bỗng nhiên khai ngộ.
Rồi thì sáu chúng đều thệ nguyện quy ngưỡng Sư. Từ đó việc giáo hóa được nức tiếng vùng Nam Thiên Trúc, rồi lan dần khắp Ngũ Ấn10Ngũ Ấn: Khắp nước Ấn độ. Thời Trung cổ, Ấn độ chia làm năm vùng: Đông, Tây, Nam. Bắc và Trung.. Các học giả gần xa mặc nhiên hâm mộ hưởng ứng theo, trên 60 năm Tổ độ chúng vô lượng.

*

Về sau gặp phải vua Dị Kiến11Dị Kiến: Thái tử nối ngôi vua Nguyệt Tịnh, cháu ruột gọi Bồ đề Đạt ma là chú.khinh chê hủy báng Tam bảo. Có lần vua nói: “Tổ tông ta đều tin Phật đạo mà mắc vào tà kiến nên tuổi thọ chẳng lâu, vận lành cũng ngắn. Vả thân ta là Phật sao còn cầu ở ngồi?. Việc báo ứng thiện ác đều bởi con người trí mưu mà hơn”. Kết xằng với lời nói đó, đến nỗi trong nước hàng kì cựu được các tiền vương phụng mệnh từ đó đều bị phế truất.
Tổ đã biết, tự than: “Vua kia đức bạc, bằng cách nào để cứu đây?”. Lại nhớ đến hai thủ lãnh trong tông Vô tướng: Một là Ba La Đề sắp chứng quả vị, lại có duyên với vua; hai là Tông Thắng không phải là không biện luận uyên bác, nhưng không có nhân duyên đời trước với vua.
Bấy giờ đồ chúng sáu tông, mỗi người cũng tự nghĩ: “Phật pháp có nạn, các sư tăng làm sao tự an tĩnh được?”. Tổ biết ý các chúng liền khảy ngón tay đáp ứng với chúng, sáu chúng ở xa nghe biết, nói: “Đây là tín hiệu hưởng ứng của thầy ta Đạt ma, chúng ta nên tốc hành đến để phù tá từ mệnh”. Nói xong họ đến gặp Tổ thăm hỏi lễ bái.
Tổ hỏi:
- Nay có một cánh hoa hư tàn, ai có thể cắt bỏ?
Tông Thắng đáp:
- Tôi tuy thiển bạc sao dám từ chối việc ấy.
Tổ bảo:
- Ông tuy có trí tuệ biện tài nhưng đạo lực chưa đủ.
Tông Thắng tự nghĩ: “Thầy ta sợ ta yết kiến nhà vua làm đại Phật sự, danh dự hiển đạt chiếu át uy quang bậc trên. Dù cho người kia có phước đức trí tuệ làm vua, nhưng ta là sa môn nhận yếu chỉ Phật giáo há ngại đối đầu sao?”. Nói xong lén đi đến gặp vua, quảng thuyết pháp yếu và những vụ việc về thiện ác người trời, khổ vui của thế gian … Ông cùng vua chất vấn qua lại không có gì chẳng thấu lý.
Vua hỏi:
- Nay theo chỗ ông hiểu biết thì pháp ấy ở đâu?
Tông Thắng đáp:
- Như nhà vua cảm hóa người dân, trị nước thăng bình đúng là hợp với đạo ấy, đạo nhà vua sở hữu ở đâu?
Vua đáp:
- Đạo ta sở hữu để trừ tà pháp, pháp ông sở hữu để hàng phục ai?
Tổ chẳng rời chỗ ngồi, băn khoăn biết nghĩa lý của Tông Thắng bị hỏng, vội vã bảo Ba-la-đề:
- Tông Thắng chẳng vâng lời ta dạy, lén hóa duyên ở cung vua, chốc lát nữa thua, ông nên cứu gấp.
Ba La Đề kính vâng mệnh Tổ, thưa:
- Xin mượn thần lực.
Nói xong mây hiện dưới chân, đến trước vua lặng lẽ dừng lại. Bây giờ vua đang hỏi Tông Thắng, bỗng thấy Ba La Đề cỡi mây đến, vua ngạc nghiên quên câu hỏi đáp của mình. Vua hỏi:
- Người từ không trung đến là chánh hay tà?
Ba La Đề đáp:
- Tôi chẳng phải chánh tà mà tâm vua có tà chánh đến. Nếu tâm vua chánh ngã12Chánh ngã: Không lầm chấp bản ngã, như ngã kiến ngã ái ngã mạn ngã si, dẫn tới phiền não sanh ác kiếnthì không có chánh tà.
Tuy vua có kinh dị nhưng lòng kiêu mạn vừa rồi bốc lên mạnh, liền lệnh đuổi Tông Thắng ra khỏi nước. Ba La Đề hỏi:
- Vua đã có đạo sao lại đuổi sa môn?. Tôi tuy không hiểu biết, xin vua đặt câu hỏi.
Vua giận nhưng hỏi:
- Ai là Phật?
Đáp:
- Thấy tánh là Phật.
Vua hỏi:
- Sư thấy tánh không?
Đáp:
- Tôi thấy Phật tánh.
Vua hỏi:
- (Phật) tánh ở đâu?
Đáp:
- (Phật) tánh ở tác dụng.
Vua hỏi:
- Đó là tác dụng nào nay ta chưa thấy?
Đáp:
- Hiện đang thấy tác dụng, tự nhà vua chẳng thấy.
Vua hỏi:
- Nơi ta có (Phật tánh) không?
Đáp:
- Nếu vua tác dụng thì không có chỗ nào chẳng phải. Nếu vua không tác dụng cũng khó thấy thể (tánh kia).
Vua hỏi:
- Như lúc đang tác dụng có mấy chỗ (tánh) xuất hiện?
Đáp:
- Như lúc xuất hiện phải có tám chỗ.
Vua nói:
- Phải nói cho ta nghe tám chỗ xuất hiện đó.
Ba La Đề bèn nói kệ:
Tại thai vi thân
Xử thế danh nhân
Tại nhãn viết kiến
Tại nhĩ viết văn
Tại tỹ biện hương
Tại khẩu đàm luận
Tại thủ chấp tróc
Tại túc vận bôn
Biến hiện câu cai sa giới
Thu nhiếp tại nhất vi trần
Thức giả tri thị Phật tánh
Bất thức hốn tác tinh hồn
Dịch:
Ở thai là thân
Ở đời là người
Ở mắt là thấy
Ở tai là nghe
Ở mũi xét mùi
Ở miệng đàm luận
Ở tay cầm bắt
Ở chân đi chạy
Hiện khắp bao trùm sa giới
Thâu lại trong một vi trần
Biết được, đó là Phật tánh
Không biết, gọi là tinh hồn
Vua nghe kệ xong tâm liền khai ngộ, bèn hối hận tạ lỗi trước, rồi hỏi thêm về pháp yếu sớm tối quên mệt cho đến chín tuần.
Lúc đó Tông Thắng đã bị xua đuổi, lui về ẩn nơi chốn thâm sơn, nghĩ rằng:
- Ta nay tám mươi của đời người mà còn lầm, hai mươi năm nữa lại quy về Phật đạo. Tu hành đã đoạn tuyệt dấu vết nhưng còn ngu mê tâm tánh, không phòng được nạn tai, chi bằng chết còn hơn sống.
Nghĩ xong liền tự gieo mình xuống vực, giây lát có thần nhân dùng tay hứng đỡ, đặt trên tảng đá bình an vô hại. Tông Thắng nói:
- Ta tự trách mình làm sa môn nhục nhã, muốn đem chánh pháp chuyển hóa nhà vua mà không kiềm chế hết được sự lầm lẫn của vua, đến nỗi tổn hại đến thân. Thần nhân nào trợ giúp ta đến thế này, xin ban cho một lời giúp ta bảo tồn đời tàn này.
Do đó thần nhân nói kệ:
Sư thọ ư bách tuế
Bát thập nhi tạo phi
Vị cận chí tôn cố
Huân tu nhi nhập đạo
Tuy cụ thiểu trí tuệ
Nhi đa hữu bỉ ngã
Sở kiến chư hiền đẳng
Vị thường sanh trân kính
Nhị thập niên công đức
Kỳ tâm vị điềm tĩnh.
Thông minh khinh mạn cố
Nhi hoạch chí ư thử
Đắc vương bất kính giả
Đương cảm quả như thị
Tự kim bất sơ đãi
Bất cửu thành kỳ trí
Chư thánh tất tồn tâm
Như Lai diệc phục nhĩ
Dịch: Thầy thọ đến trăm tuổi
Tám mươi còn làm quấy
Nhờ gần đấng chí tôn
Huân tu và nhập đạo
Nhưng trí tuệ chưa toàn
Mà sanh nhiều đây kia
Gặp những bậc hiền đức
Chưa hề tỏ kính trọng
Hai mươi năm công đức
Tâm ấy chưa điềm tĩnh
Bởi thông minh khinh mạn
Mới chịu quả đến thế
Bị vua bất kính đó,
Sẽ cảm quả như vậy
Xưa nay không bỏ sót
Chẳng lâu thành tựu trí
Chư thánh đều giữ tâm
Như Lai cũng như thế
Tông Thắng nghe kệ hân hoan rồi ngồi tịnh nơi hang núi cao. Lúc đó vua Dị Kiến lại hỏi Ba La Đề:
- Trí tuệ biện luận như nhân giả, ai đáng làm thầy nhân giả đây?
Đáp:
- Tôi xuất gia ở chùa Ta La, ngài tam tạng Ô Sa Bà là thầy thọ nghiệp. Người thầy xuất thế của tôi chính là Bồ Đề Đạt Ma, chú của đại vương đó.
Vua nghe đến tên Tổ kinh sợ hồi lâu, nói:
- Ta hèn mọn, không xứng đáng nối dõi ngôi vua, bội chánh hướng tà mà quên đi người chú cao quý.
Rồi sắc mệnh cận thần đặc biệt tiến hành nghênh thỉnh. Tổ tùy theo sứ giả mà đến, cho vua sám hối lỗi lầm trước; vua nghe những quy tắc răn dạy và khóc tạ lỗi với Tổ, lại ban chiếu cho Tông Thắng trở lại vương quốc.
Đại thần tâu:
- Sau khi bị đuổi Tông Thắng gieo mình xuống vực, nay đã mất rồi.
Vua nói với Sư:
- Tông Thắng chết đều bởi chính ta, bậc đại từ làm sao giúp ta thoát tội ấy?
Tổ nói:
- Tông Thắng hiện đang thiền định trong hang núi, chỉ cần sai sứ mời thì y sẽ đến.
Vua bèn sai sứ vào núi, quả thật thấy Tông Thắng ngồi ngay ngắn thiền tịch. Được triệu hồi Tông Thắng nói:
- Rất hổ thẹn với nhã ý nhà vua, bần đạo thệ nguyện ở chốn lâm tuyền. Vả vương quốc có người hiền đức đông đúc, Đạt ma là chú của vua, làm thầy sáu chúng, Ba La Đề là hàng long tượng trong pháp hội. Xin vua tôn kính hai vị thánh ấy để làm phước điền cho cơ nghiệp nhà vua.
Sứ giả vâng mệnh trở về chưa tới, Tổ hỏi vua:
- Vua biết Tông Thắng có đến không?
Vua đáp:
- Chưa biết.
Tổ nói:
- Mời một lần chưa đến, mời lần nữa mới đến.
Hồi lâu sứ giả trở về quả nhiên như lời Tổ nói.
Tổ bèn từ giả vua, bảo:
- Hãy khéo tu đức, chẳng bao lâu có bệnh. Ta phải đi thôi.
Bảy ngày sau vua mắc bệnh, ngự y đã chẩn trị mà bệnh không đỡ lại tăng. Hàng quí thích và cận thần nhớ lời thọ ký trước, vội vã phát sứ đến báo Tổ:
- Vua bệnh nặng kéo dài không bớt, xin Ngài từ bi nghĩ tình ruột thịt chịu khó đến cứu giúp.
Tổ đến gặp vua thăm bệnh vấn an. Lúc bấy giờ Tông Thắng vâng theo lời mời lần thứ hai, từ bỏ hang núi trở lại. Ba La Đề thọ ân vua đã lâu cũng đến thăm bệnh, hỏi:
- Phải làm gì giúp vua thốt khổ?
Tổ liền bảo thái tử thay cha thi ân, thả tội nhân và kính thờ tăng bảo. Lại vì nhà vua sám hối “Nguyện tội tiêu diệt”, làm như vậy ba lần. Chẳng bao lâu bệnh vua hết.
Tổ nghĩ: “Duyên với nước Chấn Đán (Trung Hoa)13Chấn Đán (Cīna-sthāna) Cīna dịch ý là Tư duy, Sthāna dịch ý là Trụ xứ, Phật thọ ký sau 500 năm, đèn trí Bát-nhã di chuyển đến kia. đã chín, tới lúc hành hóa ở đó”.
Tổ bèn phó chúc đệ tử là Bất Nhã Mật đa La, ở nơi Thiên Trúc truyền pháp, Tổ đích thân đến Chấn Đán
Trước tiên Tổ lễ từ tháp Tổ, rồi giã từ những đồng học, sau đó đến an ủi và khuyên nhủ nhà vua:
- Nên siêng tu bạch nghiệp (thiện nghiệp), hộ trì tam bảo. Ta đi chẳng lâu, một lần đi chín năm trở lại.
Vua nghe Tổ dạy, nước mắt đầm đìa, hỏi:
- Nước nầy mắc tội gì, lãnh thổ kia (Trung Hoa) có phước gì mà hồng thúc hữu duyên, không ở nước ta? Chỉ mong Ngài đừng quên tổ quốc mẹ cha, xong việc sớm về.
Vua bèn cụ bị đồ dùng cùng tiền lộ phí cho thuyền lớn, đích thân đốc suất quan liêu tiễn Tổ đến bến cảng.
Bảo Lâm Truyện thì cho rằng ngài lênh đênh giữa trùng dương, ấm lạnh khoảng ba năm thì đến Nam Hải (Quảng Châu (廣州)), đó là ngày 21 tháng 9 năm Đinh Mùi (527 Công nguyên), tức năm Phổ Thông (普通) thứ 8 nhà Lương. Thứ sử Quảng Châu là Tiêu Ngang làm chủ lễ tiếp rước trọng thể, dâng biểu trình Vũ đế. Đế xem xét y tấu, sai sứ giả mang chiếu đi nghênh thỉnh Tổ về Kim Lăng.
Ngày 1 tháng 10 Tổ đến Kim Lăng.
(Thiền sư Tung căn cứ Tục Pháp Ký của tăng Bảo Xướng nhà Lương mà viết Chánh Tông Ký. Chánh Tông Ký ghi: “Đạt ma đến nước này (Lương) vào năm canh tý 520, tức năm Phổ Thông nguyên niên, đời vua Lương Vũ đế”. Năm này là năm Chánh Quang nguyên niên, đời vua Minh đế nhà Hậu Ngụy. Nếu như thế thì niên biểu đều hợp với năm nhập diệt, quật mồ … của Tổ về sau.
Nếu bằng cứ trên là đúng thì ngày 21 tháng 9 năm đinh mùi (527), năm Phổ Thông thứ 8 và ngày mùng 1 tháng 10 Tổ đến Kim Lăng ắt rất sai. Vì tháng 3 năm Phổ Thông thứ 8 đã cải niên hiệu là Đại Thông nguyên niên, thì tháng 9 đâu còn gọi là năm Phổ Thông thứ 8.
Nam Hải ngày nay là Quảng Châu, cách Kim Lăng cả ngàn dặm, thứ sử tâu vua và Vũ đế ban chiếu nghênh thỉnh, nhưng đâu thể nào mà đến Kim Lăng trong khoảng 10 ngày ư? Hơn nữa chiếu theo Tiêu Ngang Bổn Truyện của Nam sử thì không thấy nói Ngang làm thứ sử Quảng Châu, nhưng phần cuối của Vương Mậu Truyện thì có Tiêu Ngang làm trưởng sử Quảng Châu, nhưng không biết Ngang tại nhiệm năm nào. Nay chỉ có thể nói: “Tổ đến Nam Hải đúng năm Phổ Thông nguyên niên, thứ sử Quảng Châu làm chủ lễ tiếp rước trọng thể, dâng biểu trình Vũ đế. Đế xem biểu tấu, sai sứ giả mang chiếu nghênh thỉnh. Ngày mùng 1 tháng 10 đến Kim Lăng”).
Ngày mùng một tháng mười đến Kim Lăng.
Bản ghi rõ ngày tháng thì có Bảo Lâm Truyện này, nhưng đời sau lại có khá nhiều dị thuyết xuất hiện. Sự việc vua Lương Võ Đế (武帝, tại vị 502-549) xuất hiện trong câu chuyện Đạt Ma, lần đầu tiên được tìm thấy trong Nam Tông Định Thị Phi Luận và Vấn Đáp Tạp Chưng Nghĩa; còn các tư liệu trước đó thì không thấy. Câu trả lời “vô công đức (無功德, không có công đức)” của Đạt Ma đối với vua Lương Võ Đế, mãi cho đến bản Tổ Đường Tập mới thấy xuất hiện.
Khi vua Lương Võ Đế vời Tổ đến Nam Kinh để triều kiến.
Đế hỏi:
- Từ lúc trẫm lên ngôi tới nay, tạo chùa in kinh độ tăng không thể ghi chép hết, có công đức gì không?
Tổ đáp:
- Đều không công đức.
Đế hỏi:
- Tại sao không công đức?
Tổ đáp:
- Đó chỉ là nhân hữu lậu của tiểu quả nhân thiên, như bóng theo hình, tuy có mà chẳng phải thật.
Đế hỏi:
- Thế nào là công đức chơn thật?
Đáp:
- Trí thanh tịnh và thể diệu viên vốn không tịch 14Diệu: Vi diệu, mầu nhiệm. Viên: Viên mãn, tròn đầy khắp nơi. Không: Rỗng không, vô tướng. Tịch: Không có tướng hữu vi, không một vật. Công đức như thế không thể đem việc thế gian mà cầu được.
Đế lại hỏi:
- Thế nào là đệ nhất nghĩa thánh đế?
Tổ đáp:
- Rỗng không không có thánh.
Đế hỏi:
- Đối diện trẫm là ai?
Tổ đáp:
- Chẳng biết (bất thức)!
Lương Vũ đế không lãnh ngộ. Tổ biết cơ duyên không khế hợp, ngày 19 tháng đó (tháng 10) Tổ lén rút lui (chữ hồi , Quảng Đăng chép là chữ quá) qua Giang Bắc.
Về sau này, Võ Đế hỏi Chí Công về cuộc đối thoại với Bồ Đề Đạt Ma, Chí Công nói:
- Bệ Hạ có biết người ấy hay không?
Võ Đế thú nhận:
- Trẫm thật sự không biết người ấy.
Chí Công nói:
- Người ấy là Quan Âm Bồ Tát muốn truyền tâm ấn của Phật.
Võ Đế buồn bã và cố gởi một sứ đoàn đuổi theo Bồ Đề Đạt Ma. Song Chí Công nói:
- Bệ Hạ cố tìm người ấy cũng vô ích mà thôi. Dầu cho dân cả xứ này có đuổi theo ông ta, ông ta cũng không bao giời quay trở lại đâu.
Sau cuộc nói chuyện nổi tiếng với vua Vũ Đế, Tổ đã vượt dòng Dương Tử và đến Lạc Dương, kinh đô của Bắc Ngụy, người ta nói Tổ đã dùng “Lư Diệp”, tức là chiếc thuyền bằng lá cây lau để vượt sông Dương Tử
Ngày 23 tháng 11 Tổ đến Lạc Dương nhằm năm Thái Hòa thứ 10, đời vua Hiếu Minh nhà Bắc Ngụy. (Đúng ra là năm Chánh Quang nguyên niên 520, đời vua Hiếu Minh nhà Hậu (Bắc) Ngụy. Nếu cho là năm Thái Hòa thứ 10 thì là đời Văn đế nhà Hậu Ngụy, năm này tức là năm bính dần 486, năm Vĩnh Minh thứ 4 đời vua Vũ đế nhà Nam Tề).
Về sau, Đạt Ma đến tại Tung Sơn Thiếu Lâm Tự (嵩山少林寺), suốt ngày lặng thinh ngồi xoay mặt vào vách, không ai lường được và thời nhân gọi Tổ là Bích quán Bà La Môn.
Còn câu chuyện Huệ Khả (慧可) tự mình chặt tay giữa lúc tuyết rơi rồi dâng lên cho Đạt Ma để cầu pháp, lần đâu tiên được ghi lại trong Lăng Già Sư Tư Ký; nhưng Tục Cao Tăng Truyện thì lại cho rằng Huệ Khả gặp bọn cướp giữa đường và bị chặt tay. Tổ Bồ Đề Đạt Ma và môn đệ của ngài, Huệ Khả, người mà tổ đã truyền pháp, luôn là đề tài của công án Thiền Vô Môn cũng như bức tranh nổi tiếng của Sesshu, một họa sĩ lừng danh của Nhật Bản.
Thần Quang, một học giả nổi tiếng thời bấy giờ, ở lâu nơi vùng Y Lạc đã lâu, xem rộng biết nhiều sách nên giỏi đàm luận huyền lý. Quang thường than: “Khổng Lão dạy lễ ký, phương thuật, phong thủy, pháp quy; các sách Trang tử, kinh Dịch nói chưa tột diệu lý. Mới đây có nghe Đạt Ma Đại sĩ đến ở chùa Thiếu Lâm, đang tạo cảnh giới sâu mầu, bậc chí nhân chẳng xa”. Bèn đến đó sớm hôm vâng hầu. Tổ luôn ngồi kiết già xoay mặt vào vách, không ai nghe Tổ dạy bảo gì. Quang Tự tư duy: “Người xưa cầu đạo đập xương lấy tủy, chích máu cứu đói15Thích huyết tế ngạ 刺血濟饑: Cố sự về đức Thế Tôn và năm anh em Kiều Trần Như, lúc xưa khi Thế tôn còn là quốc vương, tự chích trong thân thể 5 chỗ để có máu mà cứu đói năm dạ-xoa, bảo với năm dạ-xoa rằng ngày khác thành đạo sẽ đem giới định tuệ của Pháp thân diệt trừ các dục của tam độc khiến đến cảnh yên ổn của Niết-bàn (Kinh Hiền Ngu)., trải tóc che bùn16Bố phát yểm nê 布髮掩泥描 trải tóc lên bùn: Tiền thân của đức Phật Thích-ca dâng hoa cúng dường Phật Nhiên Đăng và khi thấy mặt đất lầy lội, Ngài đem tóc của mình trải lên bùn để Phật Nhiên Đăng bước qua., gieo mình xuống vực cho hổ đói ăn thịt17Đầu nhai tự hổ 投崖飼虎 gieo mình vào vách cứu (cọp) đói. Vị tam thái tử thấy con cọp mẹ đói quá định ăn cọp con, thái tử gieo mình vào núi để máu chảy cho cọp mẹ ăn.. Xưa mà như thế, còn ta là người nào?”.
Ngày mùng 9 tháng 12 năm đó (520), tuyết rơi đầy suốt đêm, Quang đứng vững bất động, trời sáng muộn tuyết phủ quá đầu gối. Tổ thấy thương cảm, quay ra hỏi:
- Ông đứng chờ lâu ngồi tuyết, muốn cầu việc gì?
Quang bi lệ đáp:
- Chỉ mong Hòa thượng từ bi mở cửa cam lồ, quảng độ chúng sanh.
Tổ đáp:
- Diệu đạo vô thượng của chư Phật, phải nhiều kiếp tinh cần, làm được việc khó làm nhẫn được việc khó nhẫn, hàng thiểu đức thiểu trí lòng còn rẻ rúng ngã mạn há cầu được sao?. Muốn được chơn thừa phải nhọc công cần khổ.
Quang nghe Tổ khuyên bảo, lén lấy dao bén tự chặt cánh tay trái rồi dâng lên trước mặt Sư18Theo huyền sử có đoạn ghi: Tổ bảo khi nào tuyết màu đỏ, ta sẽ nói. Thần Quang thầm lấy dao bén chặt tay, máu rơi xuống tuyết thấm đỏ, bèn vốc nắm tuyết đỏ vào trình Tổ... Tổ biết đây là pháp khí, bèn bảo:
- Lúc ban sơ cầu đạo chư Phật vì pháp quên thân, ông nay chặt cánh tay trước mặt ta, tâm cầu đạo cũng khá đấy!
Rồi nhân đó ban cho tên Huệ Khả. Quang thưa:
- Pháp ấn chư Phật con có thể nghe được chăng?
Tổ đáp:
- Pháp ấn chư Phật không thể được từ người khác.
Quang nói:
- Tâm con chưa an, xin thầy an cho.
Tổ bảo:
- Đem tâm ra đây, ta an cho ông.
Thưa:
- Con tìm tâm trọn không thể được.
Tổ nói:
- Ta an tâm cho ông rồi.

*

Vì thương kẻ tinh thành nên Tổ bèn chỉ cho chân đạo: “Bích quán là phép an tâm, tứ hạnh là phép phát hạnh, phòng ngừa sự chê hiềm là phép thuận vật, và đừng chấp trước là phương tiện tu hành cũng như cứu độ chúng sanh”. Khi ở chùa Thiếu Lâm, Tổ thường dạy nhị tổ bằng bài kệ sau:
Ngoài dứt chư duyên
Trong không toan tính
Tâm như tường vách
Mới là nhập đạo

*

Về sau vua Hậu Ngụy Hiếu Minh đế nghe Tổ kỳ đặc, sai sứ mang chiếu đến mời Tổ trước sau ba lần. Tổ không rời Thiếu Lâm, đế càng thêm kính mến lại ban ca sa ma nạp hai bộ, bát bằng vàng bình nước bằng bạc, lụa dày … Tổ cố từ nhượng ba phen, ý vua càng cương quyết, Tổ mới nhận. Từ đó chúng tăng và tại gia cư sĩ tin tưởng và quy hướng gia tăng bội phần.
Tổ ở Thiếu Lâm đến chín năm, muốn trở về Tây, nước Thiên Trúc, bèn gọi môn nhân đến, bảo:
- Thời sắp đến rồi, các ông sao chẳng nói lên sở đắc mỗi người đi?
Bấy giờ môn nhân Đạo Phó (道副) bước ra thưa:
- Theo chỗ con thấy, chẳng chấp văn tự chẳng lìa văn tự, đó là tác dụng của đạo.
Tổ nói:
- Ông được phần da của ta.
Ni Tổng Trì (尼總持)19Ni Tổng Trì: Ni sư thời Nam Bắc triều, còn được gọi là Ni Tổng Trì. Sư họ Tiêu 蕭, tên Minh Luyện, là con gái của vua Lương Vũ Đế, xuất gia hiệu Tổng Trì. Sư học thiền với Sơ Tổ Bồ Đề Đạt Ma. Chứng ngộ thị tịch, tháp cách Thiếu Lâm năm dặm. Sự việc ghi đầy đủ nơi bia văn.[Tổ Đình Sự Uyển, Q.8] thưa:
- Chỗ con hiểu hiện nay cũng như Ngài Khánh Hỉ (A-nan) thấy cõi Phật A-súc20A-súc Phật, Phạn aksobhya, dịch âm Hán Việt, nghĩa là Bất động Phật. , chỉ thấy một lần không còn thấy nữa.
Tổ nói:
- Ngươi được phần thịt của ta.
Đạo Dục (道育) thưa:
- Tứ đại vốn rỗng không, ngũ ấm (uẩn) chẳng phải có, và chỗ thấy của con không một pháp có thể được.
Tổ nói:
- Ông được phần xương của ta.
Cuối cùng Huệ Khả bước ra lễ bái rồi trở lại đứng chỗ cũ. Tổ nói:
- Ông được phần tủy của ta.
Rồi Tổ nhìn Huệ Khả và bảo:
- Xưa Đức Như Lai đem chánh pháp nhãn trao cho Ca diếp Đại sĩ, lần lượt trao liên tục đến ta, nay ta trao ông, ông nên giữ gìn. Và trao cho ông ca sa để làm pháp tín, ông nên biết mỗi thứ tiêu biểu cho mỗi việc.
Khả thưa:
- Xin thầy chỉ cho mọi việc.
Tổ nói:
- Bên trong truyền pháp ấn để khế hợp với tâm chứng, ngồi trao ca sa để xác định tông chỉ. Về sau lòng người sanh khinh bạc, nghĩ suy ngờ vực và tranh giành, họ nói: “Ta là người Tây Thiên, ông là người Trung Hoa, căn cứ vào đâu mà đắc pháp, lấy gì để minh chứng?”. Nay ông nhận y pháp này, sau gặp nạn chỉ cần trình y và kệ truyền pháp của ta để minh chứng thì sự giáo hóa không trở ngại. Hai trăm năm sau khi ta nhập diệt, không truyền y nữa vì Phật pháp thạnh hành khắp nơi, lúc đó người biết đạo thì nhiều người hành đạo lại ít, người nói lý thì nhiều người thông lý lại ít, nhưng những người thầm hợp mật chứng có hơn ngàn vạn. Ông đảm đang việc xiển dương chớ xem thường người chưa ngộ, trong một niệm hồi tâm liền đồng người được trước. Hãy nghe ta nói kệ:
Ngô bổn lai tư độ,
Truyền pháp cứu mê tình.
Nhất hoa khai ngũ diệp,
Kết quả tự nhiên thành.
Dịch:
Ta vốn đến xứ này,
Truyền pháp cứu người mê.
Một hoa nở năm21Một hoa: Một dòng thiền của Tổ Đạt-ma truyền sang Trung Hoa; năm cánh: gồm năm Tông Lâm Tế, Quy Ngưỡng, Tào Động, Vân Môn và Pháp Nhãn.cánh,
Kết quả tự nhiên thành.
Bài kệ phú pháp này được ghi lại trong Bảo Lâm Truyện.
Tổ lại bảo:
- Ta có bốn quyển kinh Lăng Già cũng để trao ông (Đây y cứ theo Bảo Lâm Truyện mà nói. Căn cứ Tục Cao Tăng Truyện của Luật sư Tuyên, Khả Đại Sư Truyện thì “Ban đầu Tổ Đạt Ma đem kinh Lăng Già trao cho Huệ Khả, nói: Ta xem đất Hán chỉ có Kinh này, hạng nhân giả y theo đó mà hành sẽ tự độ độ người”. Theo như truyện trên chép, khi Nhị Tổ chưa đắc pháp, Đạt-ma trao kinh Lăng Già cho Nhị Tổ xem. Nay Truyền Đăng nói sau khi đã phó pháp truyền y rồi, Tổ lại nói: “Ta có bốn quyển kinh Lăng Già cũng để trao ông”, chỉ sợ hiểu lầm mới nói “ta có”, tợ như thế gian chưa có. Chỗ này chỉ nên y cứ lời Mã Tổ nói “Lại dẫn văn kinh Lăng Già để ấn chứng tâm địa chúng sanh” thì không hại cho lý vậy) chính là yếu môn dẫn vào tâm địa Như Lai, khiến chúng sanh khai thị ngộ nhập. Từ khi đến xứ này, ta đã bị năm phen đầu độc, ta thường tự mửa ra mà thử nó, chạm đá đá tan; duyên ta vốn rời Nam Ấn để đến Đông độ đây vì thấy Xích Huyện Thần Châu (tên nước Trung Hoa thời xưa) có khí tượng đại thừa, bèn vượt biển qua sa mạc tìm người truyền pháp, gặp vận chưa thông phải như câm như dại. Nay được ông để truyền trao, ý ta đã mãn.
(Biệt Ký chép: Ban đầu Tổ ở chùa Thiếu Lâm chín năm vì Nhị Tổ thuyết pháp, chỉ dạy rằng “Ngồi ngưng các duyên, trong theo hơi thở, tâm như tường vách, có thể vào đạo”. Huệ Khả trình Tổ đủ thứ lý về tâm tánh vẫn chưa khế hợp đạo, Tổ chỉ ngừa lỗi đó mà không thuyết cho Huệ Khả nghe về tâm thể vô niệm. Huệ Khả nói:
- Con đã ngưng hết các duyên.
Tổ hỏi:
- Hẳn là thành đoạn diệt rồi chăng?
Khả đáp:
- Chẳng thành đoạn diệt
Tổ hỏi:
- Lấy gì nghiệm xét đó mà bảo chẳng đoạn diệt?
Khả đáp:
- Rõ ràng thường biết, nói không thể đến được.
Tổ nói:
- Đó là tâm thể chư Phật truyền trao, chớ có hồ nghi.
Nói xong Tổ cùng đồ chúng đến chùa Thiên Thánh ở Vũ Môn22Vũ Môn tức Long Môn tại tây bắc huyện Hà Tân, Sơn Tây và đông bắc huyện Hàn Thành, Thiểm Tây.
Sách Thủy Kinh có ghi: Vũ Môn nguyên gọi là Long Môn, hai núi đá đứng sững hai bên bờ trên một khúc sông Hoàng Hà, làm hẹp khúc sông này như một cánh cửa, nước chảy xiết như thác rất khó qua lại. Khi Hạ Vũ trị thủy, cho đục phá nới rộng thêm ra, nên gọi là Vũ Môn (cửa ông Vũ). Vũ Môn là nơi sóng dữ, thác ghềnh. Lý ngư (cá chép) tháng ba vượt Long Môn, qua được thì hóa rồng, chẳng được bị điểm trán trở về. Người đời nhân đầy để dụ cho cấp bậc và sự thành công.
Lý Bạch có thơ:
Hoàng hà ba thước vượt
Vốn tại bến Mạnh Tân
Điểm trán chẳng thành rồng
Trở về bạn với cá.
dừng lại ba ngày.
Thành ấy có quan thái thú Dương Huyễn Chi sớm mến mộ Phật thừa, hỏi Sư:
- Ở Tây Thiên Ngũ Ấn (năm miền Ấn độ Tây Thiên) Thầy được kế thừa làm Tổ, đạo ấy như thế nào?
Tổ đáp:
- Rõ được tâm tông của Phật, hạnh và giải hợp nhau, đó gọi là Tổ.
Lại hỏi:
- Ngồi lý này thì thế nào?
Tổ đáp:
- Nên rõ tâm kia biết suốt xưa nay, chẳng chán có không, nơi pháp không chấp, chẳng trí chẳng ngu, không mê không ngộ. Nếu hay hiểu như thế cũng gọi là Tổ.
Lại hỏi:
- Đệ tử hồi tâm tam bảo cũng lâu rồi mà trí tuệ ngu tối còn mê mờ chơn lý. Vừa nghe thầy nói không lãnh hội và thực hành được, mong thầy từ bi khai thị tông chỉ.
Tổ biết tâm tha thiết, mới nói kệ:
Diệc bất đổ ác nhi sanh hiềm
Diệc bất quán thiện nhi cần thố
Diệc bất xả trí nhi cận ngu
Diệc bất phao mê nhi tựu ngộ
Đạt đại đạo hề quá lượng
Thông Phật tâm hề xuất độ
Bất dữ phàm thánh đồng triền
Siêu nhiên danh chi viết Tổ.
Dịch:
Cũng đừng thấy dữ mà sanh chê
Cũng đừng thấy lành mà siêng làm
Cũng đừng bỏ trí mà gần ngu
Cũng đừng quẳng mê mà lấy ngộ
Đạt đạo lớn chừ quá lượng
Thông tâm Phật chừ vượt mức
Chẳng cùng phàm thánh chung bước
Vượt hết, gọi đó là Tổ.
Huyễn Chi nghe kệ vui buồn lẫn lộn, thưa:
- Xin thầy trụ thế gian dài lâu, hóa đạo quần sanh.
Tổ nói:
- Ta sắp đi không nên ở lâu. Người đời căn tánh muôn sai khác, gặp nhiều hoạn nạn.
Huyễn Chi thưa:
- Chưa biết ai hại thầy, đệ tử sẽ giải trừ cho thầy.
Tổ nói:
- Ta vì truyền sự bí mật của Phật, đem lợi ích cho những người lầm lạc. Hại họ để an thân nhất định không có lý đó.
Huyễn Chi nói:
- Nếu thầy không nói, sao biểu hiện thần lực quán chiếu biến hóa thông suốt được?
Tổ bất đắc dĩ nói bài sấm:
Giang tra phân ngọc lãng,
Quản cự khai kim tỏa.
Ngũ khẩu tương cộng hành,
Cửu thập vô bỉ ngã.
Dịch:
Bè sông rẽ sóng ngọc,
Dụng đuốc mở khóa vàng.
Năm miệng cùng nhau đi,
Chín mười không ta người.23Theo Tổ Đường Tập:
江槎分玉浪,〔江者流也,槎者支也。玉浪者三藏。总言流支三藏也〕
管炬开金锁。〔管炬者光也。开者统也,金锁者者毒药。〕
五口相共行,〔五口者吾字也,相共行者与吾争行佛法,生嫉法心。〕
九十无彼我。〔九十者九/十字也,无彼我者无彼此之我也。〕
Huyễn Chi nghe lời sấm, không xét suy ra manh mối, thầm ghi nhớ trong lòng rồi làm lễ từ tạ. Ý bài sấm Tổ nói tuy lúc đó không lường được nhưng về sau đều linh nghiệm.
Việc Tổ Đạt Ma bị giết chết bằng thuốc độc có ghi lại trong Truyền Pháp Bảo Ký. Trong Lịch Đại Pháp Bảo Ký có đề cập rằng bấy giờ nhà Ngụy kính trọng Tổ và bậc thiền tuấn của Phật rất đông. Các ngài Luật sư Quang Thống (光統律師, tức Huệ Quang [慧光]), Tam tạng Lưu Chi (s: Bodhiruci, 菩提流支) là những vị tăng vào hàng loan phụng, thấy Tổ nói đạo chỉ tâm bài tướng, mỗi vị cùng Tổ luận nghĩa phải trái quyết liệt. Tổ chấn chỉnh huyền phong tới cùng, phổ thí pháp vũ, và các ngài xét thấy cuộc tranh luận lệch về phía Sư, không thể đương đầu được, đồ chúng của hai vị kia khởi tâm đố kị, cùng nhau muốn hại Tổ, thường cho thuốc độc vào thức ăn. Đến lần thứ sáu, vì có người truyền pháp việc hóa duyên đã xong, Tổ ngồi ngay ngắn tịch không cho cứu chữa nữa.
Bản Lạc Dương Già Lam Ký có ghi rằng lúc khoảng 150 tuổi, Đạt Ma tán thán cảnh sắc hoa mỹ của chốn già lam Vĩnh Ninh Tự (永寧寺), rồi xướng danh hiệu Nam Mô, chấp tay mà thị tịch.
Còn về năm Ngài thị tịch, Bảo Lâm Truyện có ghi là vào ngày mồng 5 tháng 12 năm Bính Thìn (536), đời vua Hiếu Minh Đế (孝明帝, tại vị 515-528) nhà Hậu Ngụy. Trong khi đó, bản bia minh của Huệ Khả thì ghi ngày mồng 5 tháng 12 năm thứ 2 (536) niên hiệu Đại Đồng (大同). Bản Tổ Đường Tập thì ghi là năm thứ 19 (495) niên hiệu Thái Hòa (太和); và Cảnh Đức Truyền Đăng Lục thì ghi là ngày mồng 5 tháng 10 cùng năm trên; hưởng thọ 150 tuổi.
Ngày 28 tháng 12 năm đó, an táng và xây tháp thờ ở chùa Định Lâm núi Hùng Nhĩ (熊耳山), tháp xây tại chùa Thiếu Lâm.
Ba năm sau Tống Vân (宋雲) của Hậu Ngụy phụng sứ đi Tây vực trở về, gặp Tổ ở Thông Lãnh (葱嶺), thấy tay xách một chiếc giày bay vùn vụt về Tây.
Tống Vân hỏi:
- Thầy đi đâu?
Tổ đáp:
- Về Tây Thiên.
Lại bảo Vân:
- Chủ ông đã chán đời rồi.
Vân nghe qua sững sờ, từ giã Tổ đi về Đông. Đến khi phục mệnh thì vua Minh đế đã băng rồi và Hiếu Trang đế lên ngôi. Vân tâu đầy đủ việc gặp Sư, vua ra lệnh cho quật mồ, chỉ thấy một chiếc giày da trong quan tài trống không.
(Nếu y theo Tục Pháp Ký thì ba năm sau là năm canh tuất 530 tức là năm Vĩnh An thứ ba vua Trang đế, nhằm năm Trung Đại Thông thứ hai vua Vũ đế nhà Lương. Năm này tháng 12 Trang đế mới băng, lúc phụng sứ trở về thì Trang đế còn.
Nếu căn cứ theo Truyền Đăng thì ba năm sau lại là năm Kỷ Mùi 539, tức là năm Đại Thống thứ năm vua Văn đế nhà Tây Ngụy, nhằm năm Hưng Hòa nguyên niên vua Tĩnh đế nhà Đông Ngụy, nhằm năm Đại Đồng thứ năm vua Vũ đế nhà Lương. Như vậy thì sao lại có Hiếu Trang đế ư? Lại bảo Tống Vân gặp Tổ ở Thông Lãnh thì càng lầm, vì lúc Tống Vân đi sứ Tây vực trở về vào năm Chánh Quang thì vua Hiếu Minh đế nhà Hậu Ngụy hãy còn!
Vậy thì người gặp Tổ ở Thông Lãnh, có thể là cuối nhà Ngụy có sứ giả khác đi Tây vực trở về gặp Tổ chăng? Chỉ nên nói: Ba năm sau có sứ giả của Ngụy từ Tây vực trở về, gặp Tổ ở Thông Lãnh, thấy tay xách một chiếc giày bay vùn vụt về Tây. Hỏi:
- Sư đi đâu?
Đáp:
- Về Tây Thiên.
Tổ lại bảo sứ:
- Chủ ông đã chán đời rồi. Sứ nghe qua sững sờ từ giả Tổ đi về Đông. Đến khi phục mệnh thì vua Minh đế đã băng và Hiếu Trang lên ngôi, phụng sứ tâu đầy đủ việc gặp Sư. Vua ra lệnh quật mồ, chỉ còn thấy một chiếc giày da trong quan tài trống không).
Cả triều đình đều kinh sợ và cảm phục về việc đó, vâng chiếu đem chiếc giày còn lại cúng dường ở chùa Thiếu Lâm. Đến năm Đinh Mão, năm Khai Nguyên thứ 15 nhà Đường (727) bị một môn đồ lấy trộm giày đem thờ trong chùa Hoa Nghiêm ở Ngũ Đài. Nay (1004) không biết chiếc giày thất lạc về đâu.
Vì câu chuyện này, mà Tổ Bồ Đề Đạt Ma luôn xuất hiện trong nghệ thuật Thiền với hình ảnh một người trên vai mang một chiếc giày cỏ. Ở các chùa Việt Nam theo Bắc Tông, sau nhà Tổ, thường có tranh hay tượng Bồ Đề Đạt Ma.
Ban đầu Lương Vũ đế gặp Tổ nhân duyên chưa khế hợp, đến khi nghe Tổ hóa duyên ở nước Ngụy thì muốn tự soạn bia tỏ lòng với Sư, nhưng bận việc mãi. Sau đó khi nghe chuyện Tống Vân gặp Tổ mới hoàn thành bia.
Vua Đại Tông nhà Đường ban Tổ hiệu Viên Giác Đại Sư (圓覺大師), tháp hiệu Không Quán, trong bản văn tế của Chiêu Minh Thái Tử (昭明太子) thì gọi là Thánh Trụ Đại Sư (聖胄大師).
Từ năm Bính Thìn 536 Tổ báo tịch ở Ngụy, đến năm giáp thìn Cảnh Đức nguyên niên 1004, niên hiệu của Tống Chơn Tông có 467 năm.
(Đúng ra là từ năm canh tý 520 (46) báo tịch ở Ngụy, đến năm giáp thìn Cảnh Đức nguyên niên, đời vua Tống Chơn Tông, có 475 năm. Phàm có sai về niên đại này là do sự sai sót của Bảo Lâm Truyện và Dương Văn Công 24Dương Văn công là Dương Ức, được vua Tống giao cho trách nhiệm đọc và sửa lại bộ sách này không khảo cứu lại).
Những soạn thuật của Đại Sư được lưu truyền cho đến nay có Nhị Chủng Nhập (二種入), Tâm Kinh Tụng (心經誦), Phá Tướng Luận (破相論), An Tâm Pháp Môn (安心法門), Ngộ Tánh Luận (悟性論), Huyết Mạch Luận (血脈論), được thâu tập thành bản gọi là Thiếu Thất Lục Môn (少室六門). Còn trong Thiền Môn Nhiếp Yếu (禪門攝要) của Triều Tiên có thâu lục Huyết Mạch Luận, Quán Tâm Luận (觀心論), Tứ Hành Luận (四行論). Sau này trong các văn bản được khai quật ở động Đôn Hoàng (敦煌) còn có Nhị Nhập Tứ Hành Luận (二入四行論), Tạp Lục (雜錄), Tuyệt Quán Luận (絕觀論), Vô Tâm Luận (無心論), Chứng Tâm Luận (證心論), Đạt Ma Thiền Sư Quán Môn (達磨禪師觀門), Đạt Ma Thiền Sư Luận (達磨禪師論), v.v. Tuy nhiên, theo các nghiên cứu gần đây (các tư liệu đào được ở Đôn Hoàng) cho thấy rằng phần nhiều đó là những trước tác của chư Tổ sư khác nhưng lại lấy tên Đạt Ma; và người ta cũng công nhận rằng trước tác của Đạt Ma chỉ là Nhị Chủng Nhập mà thôi. Nếu căn cứ vào bản này, ta thấy rằng tư tưởng của Đạt Ma là Tứ Như Thị (四如是, bốn điều như vậy) và Nhị Nhập Tứ Hạnh (二入四行). Luận này lấy pháp môn Bích quán làm trung tâm. Tứ Như Thị là Như Thị An Tâm (如是安心), Như Thị Phát Hạnh (如是發行), Như Thị Thuận Vật (如是順物) và Như Thị Phương Tiện (如是方便). Nhị Nhập là Lý Nhập (理入) và Hạnh Nhập (行入). Lí nhập thuộc về tư duy giáo lí, đòi hỏi bỏ giả về thực, nhận thức và giải quyết vấn đề. Hành nhập thuộc về thực hành giáo pháp, dạy người bỏ hết tình dục yêu ghét, thực hành lời Đức Phật dạy. Đây tức là giáo nghĩa Thiền pháp kết hợp giữa lí luận và thực hành.
Còn Tứ Hạnh là 4 yếu tố được hình thành từ Hạnh Nhập.
Thứ nhất là Báo Oán Hạnh. Người tu hành khi gặp cảnh khổ nên tự nghĩ như vầy: “Ta từ bao kiếp trước buông lung không chịu tu hành, nặng lòng thương ghét, gây tổn hại không cùng. Đời nay tuy ta không phạm lỗi, nhưng nghiệp dữ đã gieo từ trước nay kết trái chín, điều ấy nào phải do trời hoặc người tạo ra đâu, vậy ta đành nhẫn nhục chịu khổ, đừng nên oán trách chi ai. Như kinh đã nói “gặp khổ không buồn”. Vì sao vậy? Vì đã thấu suốt luật nhân quả vậy. Đây gọi là hạnh trả oán để tiến bước trên đường tu tập.”
Thứ nhì là Tùy Duyên Hạnh. Chúng sanh đều do duyên nghiệp mà chuyển thành, chứ chẳng có cái ‘tôi.’ Mọi nỗi khổ vui đều do nhân duyên sanh. Nếu nay được quả báo tốt, hưởng đủ vinh dự, ấy là do nhân lành thuở trước cảm nên, nay mới được vậy. Hễ duyên hết thì lại hoàn không, mừng vui nỗi gì?. Được mất gì đều tùy theo duyên, nhưng tâm người thì không vì vậy mà được thêm hay bớt mất cái gì. Nếu thấu đáo được như vậy thì gió vui chẳng động, lặng lẽ mà thuận đạo, nên nói là tùy thuận theo duyên nghiệp vậy.
Thứ ba là Vô Sở Cầu Hạnh. Người đời mãi mãi đắm mê, việc gì cũng tham trước, thế gọi là cầu. Bậc trí ngộ lẽ chân, chuyển ngược thế tục, nên an tâm trụ nơi vô vi, thân hình tùy nghi mà vận chuyển. Muôn vật đều là không, có gì vui mà cầu được. Hễ có công đức thì liền có hắc ám đuổi theo. Ở lâu trong ba cõi khác nào như trong nhà lửa. Có thân có khổ, được gì mà vui?. Thông suốt được vậy ắt buông hết sự vật, dứt tường, chẳng cầu. Kinh nói: “Còn cầu còn khổ. Hết cầu mới được vui”. Xét biết không cầu mới thực là đạo hạnh nên nói là hạnh không cầu mong.
Thứ tư là Xứng Pháp Hạnh. Cái lý thanh tịnh của tự tánh gọi là pháp. Tin hiểu lý ấy thì mọi hình tướng hóa thành không. Không nhiễm không trước, không bỉ không thử. Kinh nói: “Pháp không có chúng sanh, hãy lìa chúng sanh cấu. Pháp không có tướng ngã, hãy lìa ngã cấu”. Bậc trí ví như tin hiểu được vậy thì tùy xứng theo pháp mà hành. Bổn thể của pháp vốn không tham lận cho nên dầu đem thân mạng và của cải ra mà bố thí vẫn không hối tiếc. Thấu rõ ba cái không thì không còn ỷ lại và chấp trước. Chỉ cần gạn trừ trần cấu, tùy nghi mà giáo hóa chúng sanh, nhưng không mắc phải hình tướng, thế tức là tự hành, đã lợi người lại thêm trang nghiêm đạo Bồ Đề. Bố thí đã vậy thì năm độ Bát Nhã khác cũng thế. Vì dứt trừ vọng tưởng mà hành pháp tu lục độ, nhưng thật không gì gọi là hành cả, nên nói là hạnh tùy xứng theo pháp.
Tâm yếu làm cơ sở cho Thiền pháp của Đạt Ma được xem như là y cứ vào 4 quyển Kinh Lăng Già; nhưng đó không phải là văn bản giải thích về mặt học vấn của kinh này, mà nhằm nhấn mạnh việc cần phải lấy trọn tinh thần kinh. Lại trong Lăng Già Sư Tư Kí Đạt Ma Truyện có chép cuốn sách nhan đề: Lược Biện Đại Thừa Nhập Đạo Tứ Hành (bàn sơ lược về bốn hành vào Đạo Đại Thừa) do đệ tử của tổ Đạt Ma là sư Đàm Lâm đem lời nói và việc làm của tổ gom thành một quyển. Ngoài ra, còn có Thích Lăng Già Yếu Nghĩa 1 quyển, cùng với Lược Biện Đại Thừa Nhập Đạo Tứ Hành nói trên cũng đều được gọi là Đạt Ma Luận, lưu hành rất rộng ở đương thời.
Theo Tục Cao Tăng Truyện, giới Phật Giáo đương thời rất chú trọng đến nghiên cứu, giảng diễn kinh luận; trong khi đó, Đạt Ma thì lại cổ xúy Thiền mang tính thật tiễn của cái gọi là “không vô sở đắc (空無所得, không có cái gì đạt được)”; cho nên ngài bị học giả lúc bầy giờ phê phán mãnh liệt. Từ đó, các thuật ngữ như giáo ngoại biệt truyền (敎外別傳), bất lập văn tự (不立文字), dĩ tâm truyền tâm (以心傳心), kiến tánh thành Phật (見性成佛), v.v., được thành lập. Thời đại thay đổi cho đến thời Lục Tổ Huệ Năng (慧能) trở về sau, những thuật ngữ này trở nên rất thịnh hành, thông dụng; vậy ta có thể khẳng định rằng manh nha của chúng vốn phát xuất từ thời Đạt Ma. Cuộc đời ngài có nhiều truyện thần kì, nhưng cũng khó phân biệt được thật giả.
Nay phổ thông cho những tác phẩm chứa đựng tư tưởng và học thuyết của tổ Bồ Đề Đạt Ma gồm: Thiếu Thất Lục Môn Tập, Đạt Ma Hòa Thượng Tuyệt Quán Luận, Thích Bồ Đề Đạt Ma Vô Tâm Luận, Nam Thiên Trúc Bồ Đề Đạt Ma Thiền Sư Quán Môn, Thiếu Thất Dật Thư v.v... [X. Tục Cao Tăng Truyện Q.16; Cảnh Đức Truyền Đăng Lục Q.3, Q.30; Truyền Pháp Chính Tông Kí Q.5; Nội Chứng Phật Pháp Tương Thừa Mạch Phổ; Tông Kính Lục Q.97; Truyền Pháp Chính Tông Luận Q.hạ; Tổ Đình Sự Uyển Q.2, Q.5, Q.8; Cựu Đường Thư Liệt Truyện 141 Thần Tú Truyện]. (xt. Nhị Nhập Tứ Hành).
Kệ truyền pháp:
Ngô bổn lai tư độ
Truyền pháp cứu mê tình
Nhất hoa khai ngũ diệp
Kết quả tự nhiên thành.
Dịch :
Ta sang đến cõi nầy
Truyền pháp cứu mê tình
Một hoa nở năm cánh
Nụ trái tự nhiên thành.

---o0o---

Contact Information

Phone
Array
Address Array
This entry was posted in . Bookmark the permalink.