Additional Info
(s: Kāṇadeva, 迦 那 提 婆, khoảng thế kỷ thứ 3). Tổ truyền pháp thứ mười lăm của Thiền Tông Ấn Độ.
Tiếng Phạn Kāṇadeva có nghĩa là Phiến Mục Đề Bà (片目提婆, Đề Bà Một Mắt), hay còn gọi là Thánh Đề Bà (s: Ārya-deva, 聖 提 婆, tức Thánh Thiên). Ngài kế thừa dòng pháp từ Long Thọ (s: Nāgārjuna, 龍樹), rồi sau truyền lại cho La Hầu La Đa (s: Rāhulabhadra, 羅睺羅多). Ngài xuất thân dòng dõi Bà la môn, dòng họ Tỳ Xá La, ở Nam Thiên Trúc (Tích Lan) vào khoảng thế kỷ thứ ba trước Tây lịch.
Thay vì nhận chức làm quan thì ngài lại gia nhập Tăng-già dưới sự hướng dẫn của Hermadeva. Sau khi học xong các thuyết luận, ngài đi hành hương, viếng thăm những thánh tích của Phật giáo tại Ấn Ðộ.
Ban đầu ngài móc con mắt nơi tượng Đại Tự Tại Thiên, rồi sau đó tự móc con mắt thịt mình ra cúng dường cho tượng ấy, cho nên ngài được gọi là Đề Bà Một Mắt.
Ban sơ Ngài học phong tục trong nước, ưa làm việc phước thiện và thích biện luận. Về sau, trở thành đệ tử của ngài Long Thọ và được truyền tâm ấn. Ban đầu khi mới đối mặt, ngài Long Thọ đặt một cái bát đầy nước trước mặt Đề Bà để thử xem thái độ của ngài thế nào. Đề Bà bèn ném vào trong cái bát ấy cây kim, nhưng làm cho nước không văng ra ngoài rồi thẳng đến yết kiến Tổ. Nhân cơ duyên nầy mà cả hai đều hoan hỷ khế hợp nhau. Khi Tổ Long Thọ vì Ngài mà nói pháp, tại chỗ ngồi hiện tướng vầng trăng tròn, chúng chỉ nghe tiếng nói mà không thấy hình của Tổ.
Ngài bảo chúng:
- Với điềm lành này, hôm nay Thầy muốn trình hiện Phật tánh để tiêu biểu cho việc thuyết pháp chẳng phải là âm thanh sắc tướng.
Theo hầu học Tổ Long Thọ nhiều năm và Ngài được học hỏi về Trung Quán và tất cả các kinh trong bộ Bát Nhã Ba La Mật Đa (Prajnaparamita) của Đại Thừa. Ngài trở thành một học giả thông thạo về tất cả mọi học phái Phật Giáo và cả ngoài Phật Giáo, và được nhiều người biết đến.
Khi Long Thọ rời Na Lan Đà đi Trung Ấn, ngài cũng theo thầy. Dần dần, ngài được truyền trao trách nhiệm giảng pháp và được xem là người kế vị Long Thọ.
Sau khi đắc pháp ngài đến nước Tỳ La. Xứ đó có trưởng giả tên là Phạm Ma Tịnh Đức, một hôm cây trong vườn trưởng giả sanh tai nấm lớn hương vị rất thơm ngon. Chỉ có trưởng giả và người con trai thứ hai La Hầu La Đa hái và ăn được nấm đó, khi hái hết những nấm lớn thì lại sanh ra lớp khác, trừ những người thân của gia đình còn người ngồi không thấy nấm được.
Bấy giờ ngài biết nhân duyên đời trước nên đến nhà đó. Trưởng giả hỏi về duyên cớ ấy, ngài nói:
- Nhà ông đời trước từng cúng dường cho một tỳ kheo, nhưng tỳ kheo này đạo nhãn chưa sáng mà luống thọ ơn tín thí cho nên chịu quả báo làm nấm cây. Chỉ có ông và con trai (Chánh Tông ghi: và con trai thứ) tinh thành cúng dường mới có thể hưởng nấm, người khác thì không hưởng được.
Lại hỏi:
- Trưởng giả tuổi bao nhiêu?
Đáp:
- Bảy mươi chín.
Ngài bèn nói kệ:
Nhập đạo bất thông lý
Phục thân hồn tín thí
Nhữ niên bát thập nhất
Thử thọ bất sanh nhĩ.
Dịch:
Vào đạo chẳng thông lý
Đem thân đền tín thí
Tuổi ông tám mươi mốt
Cây này hết sanh nấm.
Trưởng giả nghe kệ càng thêm thán phục. Lại nói:
- Đệ tử già yếu theo thờ Thầy không được, muốn xin đứa con thứ theo Thầy xuất gia.
Ngài nói:
- Xưa Như Lai đã thọ ký cho người con trai này, vào năm trăm năm thứ haisẽ làm đại giáo chủ. Nay gặp nhau âu cũng phù hợp với nhân xưa. Ngài bèn cho người con trai thứ hai xuống tóc làm thị giả.
Ngài đến thành Ba Liên Phất, nghe các ngoại đạo gây trở ngại Phật pháp kể ra đã lâu. Ngài bèn cầm cây phướn dài đi vào trong chúng ngoại đạo.
Ngoại đạo hỏi ngài:
- Sao ông chẳng (thấy đằng) trước?
Tôn giả đáp:
- Sao ông chẳng (thấy đằng) sau?
Lại nói:
- Ông giống như tiện nhân (người ti tiện).
Tôn giả đáp:
- Ông giống như lương nhân (người tốt).
Lại hỏi:
- Ông biết pháp gì?
Tôn giả đáp:
- Ông không biết đủ điều.
Lại nói:
- Tôi muốn đắc Phật.
Tôn giả nói:
- Tôi so đo (mới có) đắc Phật.
Lại nói:
- Ông chẳng đắc đâu.
Tôn giả nói:
- Trước ông nói “tôi muốn đắc”, thực ra ông chẳng đắc đâu.
Lại hỏi:
- Ông đã chẳng đắc, nói đắc là thế nào?
Tôn giả nói:
- Ông có ngã vì vậy chẳng đắc, ta không ngã ngã cốtự nhiên phải đắc.
Lời đối đáp bị bẻ gãy, ngoại đạo bèn hỏi:
- Tên ông là gì?
Tôn giả nói:
- Tôi tên là Ca Na Đề Bà.
Ngoại đạo đã nghe danh ngài nên hối lỗi và cảm ơn. Bấy giờ trong chúng còn đang sôi nổi vấn nạn nhau, ngài dùng biện tài vô ngại phân giải nhờ đó họ quy phục.
Không rõ là ngài lưu lại Trung Ấn bao nhiêu lâu nhưng trong thời gian này, ngài có thành lập nhiều tu viện.
Một hôm ngài được đại học Na Lan Đà mời đến để tranh biện với một vị Bà La Môn rất lỗi lạc là Durdhasakala mà từ trước đến nay không ai thắng được ông ta. Ngài liền đến Na Lan Đà một lần nữa, trên đường đến Na Lan Đà ngài gặp một bà lão xin ngài một con mắt để tu luyện, ngài bèn móc mắt cho ngay, cử chỉ này cho thấy ngài không bám víu vào bất cứ một thứ gì kể cả thân xác và sự đau đớn của mình, và cũng từ đó ngài có thêm một biệt danh là Độc Nhãn Bồ Tát.
Tại cuộc tranh luận ở đại học Na Lan Đà ngài thắng Dhurdhasakala trong ba vòng tranh luận, vị này bèn xin quy y Phật Giáo. Sau đó ít lâu ngài được mời giữ chức trụ trì của Na Lan Đà. Trong thời gian ở bắc Ấn ngài thiết lập được 24 tu viện. Sau nhiều năm trụ tại Na Lan Đà, khi đã lớn tuổi thì ngài quay về quê nhà ở miền nam và mất tại Raṅganātha, Kiến Chí (kāñcī).
Ngài đã từng đi khắp Ấn Độ, dương cao cây kiếm phá tà và điều phục chúng ngoại đạo, vì vậy ngài rước lấy oán hận và cuối cùng bị ngoại đạo giết chết.
Theo Cảnh Đức Truyền Đăng Lục ghi thì khi sắp quy tịch, ngài bảo với môn đệ thượng thủ là La Hầu La Đa và truyền pháp nhãn cho, kệ rằng:
Bổn đối truyền pháp nhân
Vị thuyết giải thốt lý
Ư pháp thực vô chứng
Vô chung diệc vô thủy.
Dịch:
Vốn cho người truyền pháp
Mà nói lý giải thốt
Nơi pháp thực không chứng
Không chung cũng không thủy.
Ngài nói kệ xong, nhập phấn tấn định, thân phóng ra tám đạo hào quang rồi thâu trở về tịch diệt. Học chúng xây tháp cúng dường ngài.
Nhằm nhà Tiền Hán Văn đế năm thứ 19, năm canh thìn (năm 160 trước công nguyên).
Ngài để lại nhiều trước tác, nhưng các bản bằng tiếng Phạn đều mất hết, chỉ còn các bản dịch lại bằng tiếng Hán và tiếng Tây tạng.
Tác phẩm Tứ bách luận (catuḥśataka) của ngài gồm 400 câu kệ, với suy luận biện chứng phủ định, giải thích giáo pháp Vô Ngã và Tính Không. Tập Bách Luận (śataśāstra) được xem là bản thu gọn lại của Tứ Bách Luận, cũng gây ảnh hưởng lớn trong Phật giáo. Trong tập Bách Luận Thánh Thiên đã đưa nhiều luận giải đối trị các quan điểm bài bác Phật giáo. Bách Luận là một tác phẩm căn bản của Tam Luận Tông tại Trung Quốc.
Kệ truyền pháp:
Bổn đối truyền pháp nhơn
Vị thuyết giải thoát lý
Ư pháp thật vô chứng
Vô chung diệc vô thủy.
Dịch :
Xưa đối người truyền pháp
Vì nói lý giải thoát
Nơi pháp thật không chứng
Không chung cũng không thủy.
|