Additional Info
(s: Kumāralabdha, 鳩摩羅多, Đồng Thụ). Tổ truyền pháp thứ mười chín của Thiền Tông Ấn Độ.
Ngài là con nhà Bà La Môn tại nước Đại Nguyệt Chi. Ngài sanh ra vào khoảng 400 năm sau khi đức Phật nhập diệt. Đời trước làm người của Tự Tại thiên (Trời dục giới thứ 6), Ngài thấy Bồ tát Anh Lạc bỗng khởi tâm yêu mến mà đọa sanh xuống Trời Đao Lợi (Trời dục giới thứ 2), ở đây nghe Kiều Thi Ca thuyết Bát Nhã Ba La Mật Đa, nhờ nghe pháp ưu thắng nên thăng lên Phạm thiên (Trời sắc giới). Nhờ lợi căn khéo thuyết pháp yếu mà chư thiên tôn làm đạo sư tiếp nối Tổ vị, thời đến giáng sanh ở nước Nguyệt Chi.
Gia đình Ngài trước kia giàu có, song cha Ngài vì bịnh tham tiếc chỉ một bề bo bo giữ của. Nhơn việc con chó nằm ngoài rèm, gặp Tổ Già Da Xá Đa giải nghi, Ngài phát tâm theo đạo Phật, xuất gia thọ giới. Sau khi được được Tố Xá Đa phó chúc và truyền tâm pháp, Ngài đi vân du khắp nơi để hoằng pháp lợi sanh.
Trong quyển Phật tổ lịch đại thông thái có ghi tích nầy: Khi ngài Giá Da Xá đa tổ thứ 18 du hóa đến nước Nguyệt Chi, ngài thấy nơi nhà một người Bà La Môn có lằn khí lạ. Tổ muốn vào nhà ấy. Ngài Cưu Ma La Đa hỏi rằng:
- Ngài là đồ chúng nào?
- Ta là đệ tử Phật.
Ngài nghe nói đến danh hiệu Phật thì tâm thần sợ hãi lắm, tức thời đóng cửa lại. Tổ chờ một chặp lâu, kế gõ cửa. Ngài nói:
- Không có ai ở nhà hết.
- Ngươi nói không có ai, vậy ai nói đó?
Biết là bực dị nhơn, ngài mở cửa đón tiếp. Tổ nói rằng:
- Phật có phán tiên tri rằng: “Trong vòng một ngàn năm sau khi ta tịch, sẽ có một bực đại sĩ xuất hiện tại nước Nguyệt Chi”. Nay ta gặp ngươi thật ứng vào lời tiên tri ấy. Lúc ấy ngài phát túc mạng trí (nhớ việc đời trước), được tổ nhận truyền giới xuất gia.
Có vài nguồn nói rằng ngài sống vào khoảng cuối thế kỷ thứ ba, nhưng không có bằng chứng rõ ràng nào minh xác niên đại đó. Theo Lịch Sử Những Vị Kế Thừa Đức Phật, ngài sanh ra tại vùng Đán Xóa Thi La (cũng nên biết rằng Đán Xóa Thi La là tên của một thành phố ở Gandhara, mà bây giờ là Taxila ở Pakistan, nơi đã từng có một trường đại học Phật giáo nổi tiếng. Theo Nalinnaksha Dutt trong Các Tông Phái Phật Giáo Ấn Độ, các nhà khảo cổ đã tìm thấy tại đây, trong số những cổ vật có ít nhất 55 tháp và 28 ngôi tự viện, 9 ngôi đền. Ngài Huyền Trang đã viếng thăm nơi này đến hai lần, một lần vào năm 630 khi ngài mới đến xứ này, và một lần vào năm 645 trong chuyến trở lại đây. Tại đây ngài đã tìm thấy nhiều phế tích của các ngôi tự viện. Một vài Tăng sĩ mà ngài gặp đều thuộc trường phái Đại Thừa), thuộc vùng tây bắc Ấn Độ thời cổ và là một người rất khôn ngoan ngay lúc còn là một đứa trẻ. Xuất gia làm Tăng và kế thừa Phật pháp với Tổ Tăng Già Da Xá để làm tổ đời thứ XIX tại Ấn Độ. Trí huệ và sự hiểu biết của ngài nổi tiếng khắp xứ Ấn Độ và đã thu hút nhiều người theo với đạo Phật.
Sau khi đắc pháp, ngài đến nước thuộc miền trung Thiên Trúc. Ở đây có vị đại sĩ tên là Xà Dạ Đa đến hỏi:
- Phụ mẫu nhà tôi vốn tin tam bảo mà bệnh tật cứ đeo đuổi, phàm việc làm ăn tạo tác đều không như ý. Trái lại, nhà hàng xóm tôi làm việc chiên đà la (xấu ác hạ tiện) mà thân họ thường khỏe mạnh, công việc hanh thông. Chẳng biết họ có may mắn gì và nhà tôi mắc phải tội gì?
Ngài đáp:
- Sao mà nghi được (nhân quả) ư?. Vả lại việc quả báo của thiện ác bao gồm ba thời. Người đời thường gặp: Người nhân từ chết yểu kẻ bạo tàn lại sống lâu, kẻ phản nghịch gặp may người trung nghĩa mắc nạn, thì bác là không nhân quả, chuyện tội phước là hão huyền. Họ hoàn toàn đâu biết ảnh hưởng của nhân quả tội phước theo nhau như hình với bóng, hào ly chẳng lệch. Dù cho trải qua trăm ngàn vạn kiếp cũng không tiêu mất.
Bấy giờ Xà Dạ Đa nghe nói xong, liền giải tỏa mối nghi.
Tôn giả nói:
- Ông tuy đã tin tam nghiệp nhưng chưa biết: nghiệp do hoặc sanh, hoặc do thức mà có, thức tùy theo bất giác, bất giác tùy theo tâm. Tâm xưa nay thanh tịnh không sanh diệt không tạo tác, không báo ứng không hơn thua, thường vắng lặng mà linh tri. Nếu ông vào được pháp môn này thì có thể đồng với chư Phật, tất cả pháp thiện ác hữu vi vô vi đều như mộng huyễn.
Xà Dạ Đa thừa dịp nghe ngài dạy, lĩnh hội yếu chỉ, liền khởi phát túc tuệkhẩn cầu xuất gia. Xà Dạ Đa thọ giới cụ túc xong, ngài bảo:
- Nay ta tới lúc tịch diệt. Ông sẽ tiếp nối ta du hành tùy phương tiện giáo hóa.
Rồi truyền trao pháp nhãn. Kệ rằng:
Tánh thượng bổn vô sanh
Vị đối cầu nhân thuyết
Ư pháp ký vô đắc
Hà hồi quyết bất quyết?
Dịch:
Trên tánh vốn không sanh
Vì người cần mà nói
Nơi pháp đã vô đắc
Đâu mong quyết chẳng quyết?
Ngài nói:
- Đây là câu Như Lai diệu âm kiến tánh thanh tịnh, ông nên truyền bá cho hậu học.
Nói xong, liền ở trên tòa dùng móng tay rạch mặt hiện màu đỏ như đóa sen hồng mới nở. Từ đóa sen phóng đại quang minh chiếu soi tứ chúng rồi vào tịch diệt. Xà Dạ Đa xây tháp thờ.
Nhằm năm Tân Thất thứ 14, năm Nhâm Ngọ (năm 22 công nguyên).
Trong Đại Đường Tây Vực Ký, Huyền Trang đã liệt kê ngài như là một trong bốn mặt trời thời đó, những vị khác là Mã Minh, Long Thọ và Thánh Đề Bà. Họ được gọi là "mặt trời" là bởi vì họ được xem như chiếu sáng thế gian với trí huệ của mình. Tổ Cưu Ma La Đa còn được xem như là người sáng lập ra Kinh Lượng Bộ và là người đã truyền Phật pháp lại cho Tổ Xà Dạ Đa. Tên Sautrantika có nghĩa là “Kinh là tối hậu,” vì thế khi Tổ Cưu Ma La Đa sáng lập ra trường phái này, Tổ cho rằng kinh điển là cực kỳ quan trọng trong việc tu tập chứ không phải những luận giải, những thứ không phải là lời Phật dạy. Trường phái này bác bỏ lời tuyên bố cho rằng A Tỳ Đạt Ma có thẩm quyền tối thượng. Tên của trường phái là “Kinh Điển là Tối Hậu,” ngụ ý không có gì có thể được gọi là kinh điển sau Tạng Kinh do chính Đức Phật tuyên thuyết. Đây là một tông phái Phật Giáo Ấn Độ phát xuất từ trường phái Nhất Thiết Hữu Bộ, có lẽ vào khoảng năm 150 trước Tây Lịch. Như tên gọi của nó, truyền thống này dựa trên kinh điển, hơn là dựa trên những văn bản của bộ luận A Tỳ Đạt Ma. Giáo thuyết trong kinh điển (một trong 18 bộ của Tiểu Thừa. Sau khi Đức Phật nhập diệt 400 năm, nó được tách ra từ Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ. Trong số Tam Tạng trường phái này chỉ dùng kinh làm chính lượng nên gọi là Kinh Lượng Bộ, người khai sáng ra bộ nầy là Cưu Ma La Đà (bộ phái nầy chỉ lấy Kinh làm chính lượng, chỉ dùng kinh điển để chứng minh). Bộ nầy cho rằng có sự chuyển thực thể từ kiếp nầy sang kiếp khác. Theo các Phật tử của phái nầy thì trong ngũ uẩn của con người, chỉ có một uẩn vi tế nhất chuyển từ kiếp nầy sang kiếp khác, trái với Chánh Lượng Bộ cho rằng toàn bộ ‘pudgala’ đều được chuyển đi. Phái nầy cũng tin rằng mỗi người đều có một khả năng tiềm ẩn trở thành Phật, đây vốn là chủ thuyết của giáo phái Đại Thừa. Do những quan điểm đó nên bộ phái nầy được xem là một cầu nối giữa Thanh Văn Thừa (thường được gọi là Tiểu Thừa) và Đại Thừa. Trường phái Kinh Lượng Bộ phát khởi như một phản ứng đối với những trào lưu chú giải và đề cao Vi Diệu Pháp của trường phái Tỳ Bà Sa, phủ nhận giá trị của những sách chỉ nam và khảo luận phức tạp mà trường phái Tỳ Ba Sa biên soạn.
Mặc dù được phát triển từ truyền thống Nhất Thiết Hữu Bộ, nhưng người ta tin rằng đây là một trường phái Tiểu Thừa quan trọng, mà học thuyết chỉ dựa vào kinh điển. Có một số quan điểm khác mà trường phái Kinh Lượng Bộ tương phản với Nhất Thiết Hữu Bộ. Đặc biệt Kinh Lượng Bộ bác bỏ khái niệm về “Pháp” của Nhất Thiết Hữu Bộ về ba cách của thơì gian. Để giải quyết các vấn đề về nghiệp quả, trường phái Nhất Thiết Hữu Bộ đã tìm cách giải quyết nhờ ý tưởng các pháp tồn tại qua cả ba thời. Theo Nhất Thiết Hữu Bộ, nghiệp và quả liên hệ nhau trong ba thời, quá khứ, hiện tại và vị lai. Tuy nhiên, Kinh Lượng Bộ chủ trương rằng các hành động cuả một người toả ra hương thơm khắp môi trường tâm linh của người đó để tạo ra những kết quả nhất định. Lý thuyết này khiến Kinh Lượng Bộ gặp khó khăn và họ đã phải khai triển ý tưởng về “hạt giống” được trồng bởi một hành vi với một đặc tính đạo đức nhất định, để sau này mới đâm chồi khi điều kiện cho phép, và phát sanh ra cái quả phù hợp với hành vi ban đầu. Trường phái Kinh Lượng Bộ không thừa nhận những luận giải không phải là lời Phật dạy. Họ bác bỏ lời tuyên bố rằng Vi Diệu Pháp (A Tỳ Đạt Ma) có thẩm quyền tối thượng. Thật ra, nguồn gốc của trường phái Kinh Lượng Bộ xuất phát bởi việc phủ nhận sự mở rộng không ngừng của Tỳ Bà Sa luận, tức những tác phẩm tóm lược kinh của trường phái Tỳ Bà Sa trong Nhất Thiết Hữu Bộ. Vào thế kỷ thứ tư sau Tây Lịch, ngài Thế Thân đã viết bộ A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận dưới quan điểm của một người theo Kinh Lượng Bộ, và ngài thành công đến độ trường phái Tỳ Bà Sa phải tàn rụi. Từ đó về sau tác phẩm A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận được xem như là Vi Diệu Pháp chính thức của Nhất Thiết Hữu Bộ và Kinh Lượng Bộ.
Kệ truyền pháp:
Tánh thượng bổn vô sanh
Vị đối cầu nhơn thuyết
Ư pháp ký vô đắc
Hà hoài quyết bất quyết
Dịch:
Trên tánh vốn không sanh
Vì đối người cầu nói
Nơi pháp đã không được
Đâu cần giải chẳng giải
|