Additional Info
(Haklenayaśas, 鶴勒那). Tổ truyền pháp thứ hai mươi ba của Thiền Tông Ấn Độ.
Lặc Na là Phạn ngữ, Hạc là Hoa ngữ. Vì ngài ra đời thường cảm đến đàn hạc luyến mến đi theo, nên có tên đó. Ngài sanh ra trong một gia đình Bà La Môn trong xứ Nguyệt Chi và sống khoảng chín trăm năm sau khi đức Phật nhập Niết Bàn (Theo Eitel trong Trung Anh Phật Học Từ Điển, Nguyệt Chi còn gọi là nước Đô Hóa La, gọi theo từ địa lý học thì đây là xứ sở của băng tuyết, vùng mà bây giờ gọi là Badakchan, và các nhà địa lý Ả Rập vẫn còn gọi là Tokharestan. Theo nhân chủng học thì đây vùng của dân tộc Tocharoi hay IndoScythians (người Trung Quốc gọi là Tocharoi Tartars), bị người Hung Nô đuổi chạy về phương nam, chiếm vùng Trans-oxania, tiêu diệt vương quốc Đại Hạ vào năm 126 trước Tây Lịch, và cuối cùng chiếm vùng Punjab, Cashmere, và phần lớn lãnh thổ Ấn Độ. Vị vua nổi tiếng của xứ nầy là Kanichka).
Cha hiệu Thiên Thắng, mẹ là Kim Quang. Ông Thiên Thắng đã lớn tuổi mà không con. Một hôm, ông đến trước Kim Tràng thờ bảy đức Phật dâng hương lễ bái cầu con. Một hôm, bà Kim Quang nằm mộng thấy một vị thần đứng trên ngọn núi Tu Di tay cầm vòng ngọc nói với bà:"Ta lại đây". Khi thức giấc, bà biết có thai.
Theo Phật Tổ Truyền Thừa Ký, nơi ngài ở dân chúng kinh sợ quỷ thần nên giết bò mua rượu tế lễ. Khi Ngài được bảy tuổi đi chơi trong xóm, Ngài một mình đi vào ngôi miếu trong rừng sâu, phá đàn và thả bò đi, và quở trách mấy ông thần núi rừng rằng: "Các người bày đặt chuyện giáng họa ban phước mà đánh lừa người ta. Giết vật cúng tế hằng năm hao phí, làm tổn hại người và vật quá lắm! ".Ngài quở xong, ngôi miếu bị sụp đổ. Dân chúng trong làng gọi Ngài là ông thánh con (Thánh tử).
Năm 22 tuổi xuất gia, Ngài xuất gia tu theo Phật giáo. Ngài ở ẩn trong đám rừng xanh ngót chín năm, chỉ làm bạn với bầy hạc và chuyên tụng Kinh Đại Bát Nhã. Năm 30 tuổi, Ngài gặp Tổ Ma Noa La và được truyền tâm ấn.
Ngài đi du hóa đến miền Trung Ấn độ, vua nước ấy tên là Vô Úy Hải sùng tín đạo Phật. Ngài đang nói chánh pháp cho vua nghe, kế đến vua bỗng thấy hai người mặc áo lụa trắng đến lễ bái ngài.
Vua hỏi:
- Đây là ai vậy?
Sư đáp:
- Đây là hai thiên tử Nhật, Nguyệt (Nhật thần, Nguyệt thần). Xưa tôi từng thuyết pháp cho họ nghe nên họ đến lễ.
Hồi lâu họ biến mất, chỉ còn nghe mùi hương lạ.
Vua hỏi;
- Quốc độ (cõi nước) của hai thần Nhật, Nguyệt có tất cả là bao nhiêu?
Tôn giả đáp:
- Ba ngàn thế giới do Phật Thích ca giáo hóa. Mỗi thế giới có trăm ức tu di sơn mặt trời mặt trăng, nếu ta nói đầy đủ thì không thể hết.
Vua nghe nói hân hoan. Bấy giờ ngài diễn thuyết đạo vô thượng độ chúng có duyên. Long Tử đề cập ở trên, tới lúc chết sớm, có anh là Sư Tử học rộng nhớ dai theo đạo Bà La Môn. Thầy mình đã mất rồi, em cũng đã mất, Sư Tử bèn đến quy y với ngài và hỏi:
- Muốn cầu đạo, tôi phải dụng tâm thế nào?
Tôn giả đáp:
- Ông muốn cầu đạo, dụng tâm không có đối tượng (dụng tâm).
Hỏi:
- Đã không đối tượng dụng tâm thì ai làm Phật sự?
Tôn giả đáp:
- Nếu ông có đối tượng dụng (tâm) tức là phi công đức, nếu ông vô tác (không có cái tạo tác) mới là Phật sự. Kinh nói: “Ta làm ra công đức mà không có cái để ta làm”.
Sư Tử nghe lời đó xong liền nhập trí tuệ Phật. Lúc ấy ngài bỗng nhiên chỉ tay về hướng đông bắc, hỏi:
- Đó là khí tượng gì?
Sư Tử đáp:
- Tôi thấy khí tợ như cầu vồng trắng che phủ đất trời, lại có năm đường khí đen giăng ngang trong đó.
Tôn giả hỏi:
- Điềm đó thế nào?
Đáp:
- Chẳng thể biết.
Tôn giả nói:
- Năm mươi năm sau khi ta diệt độ, nước miền Bắc Thiên Trúc sẽ sanh ra tai nạn, nhằm vào thân ông. Ta sắp nhập diệt, nay đem pháp nhãn trao lại cho ông, ông hãy khéo tự giữ gìn.
Bèn nói kệ:
Nhận đắc tâm tánh thời
Khả thuyết bất tư nghị
Liễu liễu vô khả đắc
Đắc thời bất thuyết tri.
Dịch:
Khi nhận được tâm tánh
Mới nói chẳng nghĩ bàn
Rõ ràng không thể đắc
Khi đắc, biết chẳng nói.
Tỳ kheo Sư Tử nghe kệ vui thích nhưng chưa hiểu mình sẽ mắc nạn gì, ngài mới nói riêng cho Ngài biết. Nói xong, ngài thị hiện 18 phép thần biến và quy tịch.
Thiêu xác xong phân chia xá lợi, mỗi bên muốn xây tháp thờ riêng. Ngài lại hiện ở trên không và nói kệ:
Nhất pháp nhất thiết pháp
Nhất thiết nhất pháp nhiếp
Ngô thân phi hữu vô
Hà phân nhất thiết tháp?
Dịch:
Một pháp tất cả pháp
Một pháp thu tất cả.
Thân ta chẳng có không
Sao phân ra nhiều tháp?
Đại chúng nghe kệ thôi chia xá lợi nữa, cùng đến sân Đà đô xây tháp thờ ở đó.
Nhằm nhà Hậu Hán Hiến đế năm thứ 20, năm Kỷ Sửu (năm 209 công nguyên).
Kệ truyền pháp:
Nhận đắc tâm tánh thời
Khả thuyết bất tư nghì
Liễu liễu vô khả đắc
Đắc thời bất thuyết tri .
Dịch :
Khi nhận được tâm tánh
Mới nói chẳng nghĩ bàn
Rõ ràng không chỗ được
Khi được không nói biết.
|