Tổ Thứ 16 – Tôn Giả La Hầu La Da

Personal Information

Danh Tánh
Tổ Thứ 16 - Tôn Giả La Hầu La Da
Gender ♂️ Male

Hành Trạng

Additional Info

(s: Rāhulata, 羅詭羅). Tổ truyền pháp thứ mười sáu của Thiền Tông Ấn Độ.
La Hầu La Da vốn là dòng Phạm Ma của thành Ca Tỳ La Vệ, mà bây giờ là Nepal. Ngài là một bậc thầy buổi sơ kỳ của trường phái Trung Quán, có đôi lúc người ta nói ngài đã từng là một vị Bà La Môn. Ngài nổi tiếng với những bài kệ tán tụng Bát Nhã Ba La Mật Đa.
Thuở nhỏ đã có sẵn lòng mộ đạo. Khi lớn do cơ duyên trong vườn có cây mọc nấm, Tổ Đề Bà giải thích nhơn do, mà ngài được xuất gia.
Sau khi được truyền tâm ấn, ngài thống lãnh đồ chúng du hóa nhơn gian. Khi ngài đi hóa đạo đến thành Thất La Phiệt. Người đã tự di chuyển một cách kỳ diệu đến vương quốc Sravasti, ở đây có con sông gọi là Kim Thủy, sông này nước có mùi vị thơm ngon đặc biệt, giữa dòng sông lại hiện ra năm hình Phật.
Tôn giả nói với chúng:
- Cách đây khoảng 500 dặm đến nguồn con sông này, có vị thánh tên là Tăng Già Nan Đề đang ở đó, Phật chí ghi 1000 năm sau1Sau khi Phật nhập niết bànsẽ tiếp nối ngôi thánh vị.
Nói xong ngài dẫn các học chúng ngược dòng sông đi lên. Đến nơi thấy Tăng Già Nan Đề đang ngồi yên nhập định. Ngài và chúng quan sát chờ đợi, trải qua ba thất (21 ngày) Nan-đề mới xuất định.
Ngài hỏi:
- Thân ông định hay tâm ông định?
Đáp:
- Thân tâm đều định.
Ngài hỏi:
- Thân tâm đều định sao có xuất nhập?
Đáp:
- Tuy có xuất nhập mà không mất tướng định, như vàng trong giếng thể vàng thường tịch.
Ngài hỏi:
- Vàng ở trong giếng hoặc vàng ra ngồi giếng, (thể) vàng không động tịnh thì có vật gì ra vào?
Đáp:
- (Thể) Vàng chẳng phải động tịnh mà cho là vàng ra vào nghĩa là vàng động tịnh thì có vật gì ra vào?
Ngài nói:
- Nếu vàng trong giếng thì cái ra ngồi là vàng nào?. Nếu vàng ngồi giếng thì cái ở trong là vật gì?
Đáp:
- Vàng nếu ngồi giếng thì cái ở trong chẳng phải vàng, vàng nếu trong giếng thì cái ra ngồi chẳng phải vật.
Ngài nói:
- Nghĩa này không đúng.
Đáp:
- Lý kia chẳng nhằm.
Ngài nói:
- Nghĩa này phải hỏng.
Đáp:
- Nghĩa kia chẳng thành.
Ngài nói:
- Nghĩa kia chẳng thành mà nghĩa của ta thành.
Đáp:
- Nghĩa của ta tuy thành vì pháp chẳng phải ta.
Ngài nói:
- Nghĩa của ta đã thành vì ngã mà vô ngã.
Hỏi:
- Vì ngã mà vô ngã lại thành nghĩa gì?
Ngài nói:
- Vì ngã mà vô ngã nên thành nghĩa của ông.
Hỏi:
- Nầy nhân giả! Thầy được vô ngã đó nơi vị thánh nào?
Tôn giả đáp:
- Thầy ta là Ca Na Đề Bà chứng được vô ngã đó.
Nan Đề nói:
- Cúi đầu lễ Sư Đề Bà, người làm nên nhân giả. Vì nhân giả vô ngã, tôi muốn thờ nhân giả làm thầy.
Ngài nói:
- Vì ta đã vô ngã, ông nên thấy cái (chơn) ngã của ta. Nếu ông xem ta là thầy thì nên biết ta đây chẳng phải (chơn) ngã của ta.
Nan Đề nghe qua tâm ý rỗng rang, xin được độ thốt.
Ngài nói:
- Tâm ông tự tại chẳng bị cái ngã trói buộc.
Nói xong, ngài dùng tay phải đưa cái bát vàng lên đến Phạm cung lấy cơm thơm ở đó về thết trai đại chúng. Nhưng đại chúng bỗng sanh tâm chán chê, ngài nói:
- Do nghiệp các ông, chẳng phải lỗi ta.
Rồi bảo Tăng Già Nan Đề chia tòa cho ngồi, cùng ăn. Chúng lại ngờ vực Nan Đề. ngài nói:
- Các ông ăn không được, đều bởi cớ này: Nên biết việc chia tòa với ta, chính là Đức Như Lai Ta La Thọ vương trong quá khứ thương vạn vật để lại điềm báo. Các ông trong kiếp Trang nghiêm cũng đã đến tam quả (A-na-hàm) mà chưa chứng vô lậu.
Chúng nói:
- Thần lực của thầy chúng tôi mới đáng tin thôi. Kia là Phật quá khứ mới thầm nghi vậy.
Biết chúng sanh ngã mạn, Tăng Già Nan Đề bèn nói:
- Ngày Thế Tôn còn thì thế giới bình chánh, không có gò nống suối khe sông ngòi, nước đều ngon ngọt thảo mộc sum sê, đất nước được mùa thạnh trị, người dân hành thập thiện không có tám
khổ. Trên 800 năm từ khi Ngài thị hiện nhập diệt dưới cây Song Thọ thì thế giới gò nống, cây cối khô cằn, người không tin sâu, chánh niệm xem nhẹ, không tin chơn như chỉ thích thần lực.
Nói xong, dùng tay phải từ từ mở rộng đi sâu vào đất, đến chỗ Kim cang luân lấy nước cam lộ, đựng bình lưu ly đem đến pháp hội. Đại chúng thấy vậy liền kính mến hối lỗi mà làm lễ, do đó ngài trao mạng mạch cho Tăng Già Nan Đề và truyền pháp nhãn.
Kệ rằng:
Ư pháp thật vô chứng
Bất thủ diệc bất ly.
Pháp phi hữu vô tướng
Nội ngoại vân hà khởi?
Dịch:
Nơi pháp thật không chứng
Chẳng giữ cũng chẳng lìa
Pháp chẳng tướng có không
Trong ngồi làm sao khởi?
Tôn giả trao pháp xong ngồi yên quy tịch, tứ chúng xây tháp thờ.
Nhằm nhà Tiền Hán, năm Vũ Đế thứ 28, năm mậu thìn (năm 112 trước công nguyên!)2Năm mậu thìn này, có thể là năm 188 sau công nguyên. (ND).
Kệ truyền pháp:
Ư pháp thật vô chứng
Bất thủ diệc bất ly
Pháp phi hữu vô tướng
Nội ngoại vân hà khởi
Dịch :
Nơi pháp thật không chứng
Chẳng giữ cũng chẳng lìa
Pháp chẳng tướng có không
Trong ngoài do đâu khởi.

Contact Information

Phone
Array
Address Array
This entry was posted in . Bookmark the permalink.