Additional Info
(s: Manorhita, 摩拏羅). Tổ truyền pháp thứ hai mươi hai của Thiền Tông Ấn Độ.
Ma Nô La là tên của một vị hoàng tử xứ Na Đề của Ấn Độ, người sống khoảng tám trăm năm sau ngày đức Phật nhập Niết Bàn. Ngài dòng Sát Đế Lợi ở nước Na Đề, cha là Thường Tự Tại vua nước nầy.
Theo Lịch Sử Những Vị Kế Thừa Đức Phật, khi ngài sanh ra, có những điềm lành xuất hiện trong hoàng cung, nên về sau này vua cha không dám ràng buộc ngài ta với đời sống thế tục. Khi ngài 30 tuổi, gặp lúc tổ Bà Tu đến nước này, vua cha hỏi :
- Thưa Ngài! Thành La Duyệt có gì khác nơi này không ?
Tổ đáp:
- Nơi ấy có ba vị Phật xuất thế, nay đất nước của đại vương có hai bậc đạo sư hoằng dương Phật đạo.
Vua hỏi :
- Thưa Ngài! Hai đạo sư ấy là ai ?
Tổ đáp :
- Đức Phật có thọ ký: “Vào khoảng thời gian 500 năm lần thứ hai có hai Đại sĩ thần lực xuất gia kế thừa dòng Thánh”. Nay Ma Noa La con thứ của Đại vương chính là một người. Tôi tuy phúc đức cạn mỏng nhưng cũng dám nhận lãnh trách nhiệm làm người thứ hai.
Vua nói :
- Nếu đúng như lời Ngài nói thì trẫm sẽ cho đứa con này xuất gia làm Sa Môn.
Tổ khen :
- Lành thay ! Đại vương đã tuân theo yếu chỉ của Đức Phật rồi!
Thế rồi Tổ xuống tóc, trao giới cụ túc, truyền Đại pháp cho ngài và ngài trở thành đệ tử của Tổ sư Bà Tu và kế vị ngài để trở thành Tổ thứ 22 của Thiền Tông Ấn Độ.
Sau ngài đến miền Tây Ấn Độ. Vua nước đó tên là Đắc Độ, thuộc chủng tộc Cồ Đàm, quy y Phật thừa tinh tấn tu hành. Một hôm bỗng hiện một cái tháp nhỏ chỗ vua tu hành, vua muốn đem tháp cúng dường nhưng đông người nhấc nó lên không nổi. Sau vua mở đại hội triệu tập ba chúng: phạm hạnh, thiền quán và chú thuật, để hỏi chỗ nghi.
Bấy giờ ngài cũng đến dự hội này. Ba chúng trên đều không biện giải được, ngài nói rộng cho vua nghe về nguồn gốc của tháp (Vua A Dục tạo tháp, đây chẳng cần ghi nhiều), nay tháp hiện ra là do năng lực tạo phước của vua chiêu cảm.
Vua nghe lý giải như thế, bèn nói:
- Bậc chí thánh khó gặp, thú vui ở thế gian chẳng phải bền lâu.
Vua liền truyền ngôi cho thái tử theo Tổ xuất gia. Trong bảy ngày vua chứng bốn quả vị.
Tôn giả vỗ về vua và dạy bảo thêm, nói:
- Ông ở nước này tự khéo độ người. Hiện nay có đại pháp khí ở vùng khác, ta sẽ giáo hóa cho được độ.
Vua nói:
- Thầy ứng thân động niệm đến mười phương thì họ sẽ đến, há phải nhọc nhằn đi xa ư?
Tôn giả:
- Vâng.
Sau đó ngài đốt hương nói từ xa với tỳ kheo Hạc Lặc Na đang ở nước Nguyệt Chi: “Ông ở nước kia dạy dỗ và dẫn dắt chúng hạc, sắp chứng đạo quả, ông nên tự biết”.
Lúc đó Hạc Lặc Na đang nói kệ giảng kinh cho vua nước kia (Nguyệt Chi) là Bảo Ấn. Họ bỗng thấy có mùi hương lạ tụ lại thành bông hoa.
Vua hỏi:
- Đó là điềm lành gì vậy?
Đáp:
- Đó là Tổ sư Ma Noa La truyền tâm ấn Phật từ Tây Ấn Độ sắp tới đây, trước hết ban mùi thơm để làm tin vậy.
Hỏi:
- Thầy đó thần lực ra sao?
Đáp:
- Thầy đó được Phật thọ ký từ lâu, hiện ở trong nước kia (Tây Ấn độ) rộng thuyết dạy dỗ pháp thậm thâm.
Bấy giờ vua và Hạc Lặc Na đều làm lễ từ xa. Ngài biết rồi, liền từ giã tỳ kheo Đắc Độ đến nước Nguyệt Chi, nhận sự cúng dường của nhà vua và Hạc Lặc Na.
Sau đó Hạc Lặc Na hỏi ngài:
- Tôi ở khu rừng này đã trải qua chín năm (Ấn độ tính một bạch là một năm), tôi có đệ tử là Long Tử tuy còn nhỏ mà thông minh trí tuệ. Tôi với khả năng biết ba đời quá khứ, suy cho cùng mà chẳng biết gốc gác nó ở đâu?
Tôn giả nói:
- Học trò đó trong kiếp thứ năm về trước, sanh trong nước Diệu Hỉ thuộc nhà Bà La Môn, từng đem gỗ chiên đàn cúng chùa Phật làm chày dộng chuông, vì thế được quả báo thông minh lanh lợi và được chúng kính mộ.
Lại hỏi:
- Tôi có nhân duyên gì mà loài hạc cảm mến?
Tôn giả đáp:
- Ông từng làm tỳ kheo trong kiếp thứ tư về trước, sắp đi long cung phó hội trai, các đệ tử ông đều muốn đi theo. Ông quán xét trong chúng 500 người, không có được một người đủ phước kham nhận sự cúng dường tuyệt diệu ấy.
Bấy giờ các đệ tử trách: Thầy ta thường thuyết pháp: “Đối với sự ăn uống bình đẳng, với pháp cũng bình đẳng. Nay đã không như vậy, dù cho các ông bỏ đời này qua đời khác thay đổi các cõi nước, các ông có gì là thánh đâu mà đi phó hội?”. Năm trăm đệ tử ấy vì phước kém đức bạc thác sanh vào loài chim, nay còn cảm mến ân huệ ông nên làm hạc chúng theo nhau.
Hạc Lặc Na nghe nói, hỏi:
- Dùng phương tiện nào giúp họ giải thoát?
Tôn giả đáp:
- Ta có vô thượng pháp bảo, ông nên nghe nhận và giáo hóa đến suốt vị lai.
Rồi nói kệ:
Tâm tùy vạn cảnh chuyển
Chuyển xứ thật năng u
Tùy lưu nhận đắc tánh
Vô hỉ phục vô ưu.
Dịch:
Tâm tùy muôn cảnh chuyển
Chỗ chuyển thật sâu xa
Theo dòng nhận được tánh
Không mừng lại không lo.
Bầy giờ hạc chúng nghe kệ xong, bay lên vừa kêu và bỏ đi. Ngài ngồi kiết già yên lặng bỗng thiên hóa. Hạc-lặc-na và vua Bảo Ấn xây tháp thờ.
Nhằm nhà Hậu Hán Hoàn đế năm thứ 19, năm Ất Tỵ (năm 165 công nguyên).
|