Additional Info
Bạch-Thi-Lợi Mật-Đa-La: Dịch là Kiết Hữu, người Tây Vực- Ðương thời gọi là Cao Tọa Pháp sư, Ngài là hoàng tử Tây Vực nhưng nhường ngôi lại cho em là Ám Quỹ Thái Bá, rồi giác ngộ đi tu làm Sa-môn.
Ngài có tư chất sáng suốt, thần trí siêu phàm. Khi gặp việc đối đáp thì siêu việt hơn người. Niên hiệu Tấn Vĩnh Gia Ngài đến Trung Quốc gặp lúc loạn lạc nên lánh qua vùng Giang Tả, ở chùa Kiến Sơ. Thừa tướng Vương Ðạo một lần gặp liền ngưỡng mộ, xin làm học trò do đó mà danh Ngài vang dội. Các vị như Thái uý Dữu Nguyên, Khuy Quang Lộc, Chu Bá Nhân, Thái Thường, Tạ Ấu, cùng Ðình uý Hoàn Mậu Luân, là những bậc danh sĩ đương thời gặp ngài đều ca ngợi. Vương Ðạo thường đến thăm ngài. Ngài cỡi đai quăng xuống đất rồi nói chuyện với ông ta. Không lâu sau thì Thượng thư lệnh Biện Vọng cũng đến thăm. Khi ấy Ngài sửa sang dung nghi, ngồi ngay thẳng đón tiếp. Có người hỏi tại sao? Ngài bảo:
- Vương Ðạo thì thích phong trần siêu dật. Biện Vọng thì xem dung nghi mà phán đoán người, cho nên ta mới như vậy.
Chư công đều khen ngợi Ngài biết dụng pháp thích hợp để đối với người.
Hoàn Ðình uý thường muốn làm bài tụng ca ngợi Ngài mà chưa được. Có nói: ngài Mật-đa là bậc siêu tuyệt ở thế gian, đại tướng quân Vương Xử Xung ở Nam Hạ, nghe các vị tán thán Ngài thì muốn bái kiến. Vừa gặp mặt liền khởi tâm cung kính. Chu Di là quan Bộc xạ, thường tuyển chọn nhân tài đưa vào làm quan. Khi gặp ngài Chu Di bảo:
- Nếu là thời thái bình thạnh trị, thì phải tuyển chọn vị hiền nhân này, mà chẳng ân hận gì.
Không bao lâu Chu Di bị người hại chết, Ngài đến nhà phúng điếu tụng kinh. Ngài ngồi đối diện với người nhà, tụng kinh tiếng Phạm, âm thanh trong trẻo vang xa, mà thần khí vẫn tự nhiên, không lệ buồn thương, việc phế hưng cũng chẳng để trong tâm. Vương Ðạo thường nói: “Ngoại quốc chỉ có một hiền tài này mà thôi”. Ngài cười nói:” Nếu ta như các ông thì đương thời đâu ở đây”.
Tánh tình Ngài rộng rãi bao dung, nhưng không chịu học tiếng Hán. Chư công muốn nói chuyện với Ngài đều nhờ người dịch lại. Nhưng Ngài không đợi người dịch cũng có thể hiểu được lời. Mọi người đều khen Ngài có sự ngộ đắc phi thường.
Ngài trì chú rất có linh nghiệm. Trước ở vùng Giang Ðông chưa có chú pháp. Ngài có dịch ra quyển “Khổng Tước Vương Kinh” và làm sáng tỏ các thần chú truyền cho đệ tử phải tìm các Phạm chú nhờ vậy còn truyền đến nay. Ngài mất vào đời Tấn Hàm Khang thọ hơn tám mươi tuổi. Mọi người nghe Ngài nhập tịch đều rơi lệ buồn thương. Hằng Tuyên Vũ thường nói: “Hiếm thấy bậc cao đức siêu thế như vậy”. Ðây là khen ngợi tinh thần Ngài.
Lang Da Vương vâng thờ Ngài làm thầy đã biết bài tựa rằng: Xuân thu Ngô Sở khen ngợi Ngài, Ngài đã lưu truyền lại nơi Trung quốc và các dân tộc khác. Ngài hành lễ khác tục, do nhung địch tham lam vô nhân nên ngài bảo hộ tánh mình. Là bậc ưu tú xuất thế đương thời sinh ra nơi đó. Tài siêu quần hoặc gần như vậy. Nên biết trời trao cho bậc anh tài vĩ đại há chỉ trong bình bị. Từ xưa đến nay chỉ đời Hán mới có mặt trời vàng, bậc hiền đếu có lòng nhân, hiếu, trung, thành, đức, tín, thuần khiết, cao tột chứ chẳng phải chỉ có minh đạt mà thôi. Ngài tâm lượng cao như núi, tài giỏi như thần, phong độ, lãnh ngộ còn vượt đây xa. Vì Ngài thường tu hạnh đầu-đà ở Thạch tử võng nên thi thể an táng tại đây. Vua Thành đế thương tiếc ngài nên cho dựng tràng phan nơi mộ phần. Sau này có Sa-môn nước ngoài đến kinh sử, dựng chùa ngay nơi phần mộ của Ngài.Tạ Côn ở Trần quận hỗ trợ tiền của để xây chùa. Vì muốn ghi nhớ công nghiệp của Ngài nên gọi là chùa Cao Tọa.
|