Tổ Thứ 36 – TS Bách Trượng Hoài Hải

Personal Information

Danh Tánh
Tổ Thứ 36 - TS Bách Trượng Hoài Hải
Gender ♂️ Male

Hành Trạng

Additional Info

Thiền Sư Bách Trượng Hoài Hải

Pháp tự đời thứ hai của Nam Nhạc Hoài Nhượng

Pháp tự của Mã Tổ Đạo Nhất

Cuộc Đời Và Hành Trạng Của Bách Trượng Hoài Hải Thiền Sư

百丈懷海, Hyakujō Ekai, (720-814). Thiền sư Hoài Hải núi Bách Trượng ở Hồng Châu là người quê ở (長樂), Phúc Châu (福州, thuộc tỉnh Phúc Kiến ngày nay), họ Vương (王) (có thuyết cho là họ Hoàng), hiệu Hoài Hải (懷海), lúc nhỏ theo mẹ đi chùa lễ Phật, Sư chỉ tượng Phật hỏi mẹ:

- Đây là gì?

Mẹ bảo:

- Phật.

Sư nói:

- Hình dung không khác với người, con sau cũng sẽ làm Phật.

Năm lên 20 tuổi, Sư xuất gia với Tây Sơn Huệ Chiếu (西山慧照), rồi thọ cụ túc với Luật Sư Pháp Triều (法朝) ở Nam Nhạc (南岳); sau đọc Đại Tạng Kinh ở Lô Giang (盧江, thuộc Tỉnh An Huy ngày nay). Lúc Đại Tịch Đạo Nhất xiển hóa Nam Khang, sư chuyên tâm theo học với Mã Tổ Đạo Nhất (馬祖道一) và làm thị giả cho Tổ. Mỗi khi thí chủ đem trai phạn đến, Sư vừa giở lồng bàn ra, Mã Tổ liền cầm nửa cái bánh chỉ chúng hỏi: “Đây là gì?” Như thế mãi đến ba năm.

*

Sư cùng Tây Đường Trí Tạng, Nam Tuyền Phổ Nguyện được coi là đệ tử ruột. Thời bấy giờ gọi là Tam Đại Sĩ. Một đêm, Trí Tạng, Hoài Hải, Phổ Nguyện theo hầu Mã Tổ xem trăng.

Tổ hỏi:

- Ngay bây giờ nên làm gì?

Trí Tạng thưa:

- Nên cúng dường.

Hoài Hải thưa:

- Nên tu hành.

Phổ Nguyện phủi áo ra đi.

Tổ bảo:

- Kinh vào Tạng, Thiền về Hải, chỉ có Phổ Nguyện vượt ngoài sự vật.

*

Mã Tổ thượng đường, đại chúng vân tập. Tổ vừa mới thăng tòa nín lặng giây lâu thì sư cuốn chiếu trước mặt. Tổ liền hạ đường.

*

Một hôm, Sư tái tham Mã Tổ, Tổ thấy sư lại, Tổ lấy cây phất tử (đồ quét bụi) treo ở góc giường thiền dậy. Sư nói:

- Là cái dụng này hay rời cái dụng này ?

Tổ nói:

- Ông về sau khai mở miệng nói pháp, lấy gì để làm thầy người ?

Sư lấy cây phất tử chống đứng lên. Tổ nói:

- Là cái dụng này hay rời cái dụng này ?

Sư treo cây phất tử vào chỗ cũ. Tổ ra oai quát một tiếng lớn, sư bị ù tai 3 ngày. Từ đó tiếng tăm của sư chấn động, đàn-na tín thí thỉnh sư đến Tân Ngô Giới ở Hồng Châu (洪州, tức Tỉnh Giang Tây ngày nay), lấy Đại Hùng sơn (大雄山) thuộc Huyện Phụng Tân (奉新縣) kiến lập một ngôi chùa, núi non quanh co cao vút, do đó có tên là Bách Trượng, Ngôi chùa nầy được lấy tên là Bách Trượng Sơn Đại Trí Thọ Thánh Thiền Tự (百丈山大智壽聖禪寺).

Vừa ở đó chưa được đầy tháng, khách từ bốn phương đến tham vấn rất đông, đứng đầu là Quy Sơn Linh Hựu (潙山靈祐) và Hoàng Bá Hy Vận (黃檗希運). Một ngày kia, sư gọi chúng nói:

- Phật pháp không phải việc nhỏ. Xưa ta tái tham,bị Mã đại sư quát một tiếng, bị ù tai, mờ mắt liền ba ngày.

Hoàng Bá nghe kể lại, bất giác lè lưỡi, thưa:

- Con chẳng biết Mã Tổ, nhưng lại chẳng gặp Mã Tổ.

Sư nói:

- Ông sau này bộ chẳng nối pháp Mã Tổ sao ?

Bá nói:

- Con chẳng nối pháp Mã Tổ.

Sư hỏi:

- Vì sao?

Bá nói:

- Không phải vậy. Hôm nay nhân nghe Hòa thượng kể lại được thấy cái dụng đại cơ của Mã Tổ, nhưng vẫn chưa hiểu Mã Tổ. Nếu nối pháp Mã Tổ, về sau sẽ làm hư hoại con cháu ta.

Sư nói:

- Đúng vậy, Đúng vậy! Thấy cùng thầy bằng là làm giảm phân nửa đức của thầy. Thấy hơn hẳn thầy, mới nên truyền trao, ông khá có cái thấy hơn thầy.

Bá liền lễ bái.

(Quy Sơn hỏi Ngưỡng Sơn:

- Bách Trượng lại tham vấn Mã Tổ nhân duyên, ý chỉ của hai vị tôn túc thế nào ?

Ngưỡng Sơn nói:

- Đó là hiểu đại cơ, đại dụng.

Quy Sơn nói:

- Mã Tổ xuất 84 vị đại đệ tử. Trong hàng thiện tri thức đó, ai là người được đại cơ, ai là người được đại dụng ?

Ngưỡng Sơn nói:

- Bách Trượng được đại cơ, Hoàng Bá được đại dụng, còn kỳ dư đều là thiền sư xướng đạo.

Quy Sơn nói:

- Đúng thế, đúng thế).

*

Có ông tăng khóc bước vào pháp đường. Sư hỏi:

- Chuyện gì vậy ?

Tăng đáp:

- Cha mẹ đều cùng qua đời, xin sư coi ngày giùm.

Sư nói:

- Ngày mai này, cả hai cùng chôn cất cả.

*

Sư nói với mọi người:

- Ta cần một người truyền lời cho Tây Đường, ai đi được ?

Ngũ Phong nói:

- Con đây đi cho.

Sư nói:

- Ông truyền lời như thế nào ?

Phong nói:

- Đợi đến lúc gặp Tây Đường rồi hẳn nói.

Sư nói:

- Sau khi gặp nói cái gì ?

Phong nói:

- Để khi trở lại sẽ thuật cùng Hòa thượng.

*

Một vị Tăng hành hương đã từng thăm dò nhiều tông phái Phật giáo khác nhau, đến gặp Bách Trượng và thừa nhận rằng cái học của ông ta bấy lâu nay không làm ông hài lòng. Vị Tăng nói:

- Con đã tầm Phật bấy lâu nay nhưng không biết bắt đầu từ đâu.

Sư nói:

- Ông cũng giống như người đang cưỡi trâu mà lại đi tìm trâu vậy.

Vị Tăng hỏi:

- Nên làm gì sau khi tìm ra người ấy?

Sư nói:

- Như cưỡi trâu về nhà

Vị Tăng lại hỏi:

- Con phải bắt đầu như thế nào?

Sư nói:

- Giống như người chăn trâu, trong khi đang giữ trâu, dùng gậy để giữ cho trâu không dậm đạp đồng lúa người khác

*

Sư đang cùng Quy Sơn làm công việc. Sư hỏi:

- Có lửa không vậy ?

Quy Sơn đáp:

- Có ạ.

Sư nói:

- Ở chỗ nào đâu ?

Quy Sơn lấy một nhánh cây thổi hai ba hơi rồi đưa qua sư. Sư nói:

- Như côn trùng1Trùng: Mọt, mối cạp cây.

Hỏi:

- Thế nào là Phật ?

Sư nói:

- Vậy chớ ông là ai ?

Đáp:

- Là con đây.

Sư hỏi:

- Ông có biết kẻ “con đây” đó không ?

Đáp:

- Biết rõ ràng ạ.

Sư bèn đưa cây phất tử lên nói:

- Ông có thấy không ?

Đáp:

- Thưa thấy ạ.

Sư bèn im lời.

*

Trong lao động tập thể lúc đang cuốc đất bỗng có ông tăng nghe tiếng trống đánh hiệu giờ cơm bèn cất cuốc lên vai, cười mà về. Sư bảo:

- Hay thay ! Đây chính là cửa nhập lý của Quán Âm.

Sư về đến Viện bèn gọi ông tăng kia đến hỏi:

- Vừa rồi ông thấy đạo lý gì mà cười như thế ?

Tăng ấy đáp:

- Vừa khi nãy bụng đói, nghe tiếng trống hiệu, quay về ăn cơm.

Sư bèn cười.

*

Hỏi:

- “Theo kinh giải nghĩa, Phật ba đời oán trách. Rời kinh một chữ,như đồng ma nói” là thế nào ?

Sư nói:

- Cố thủ động tĩnh, Phật ba đời oán trách. Hướng ngoài riêng cầu,tức như ma nói.

*

Nhân tăng hỏi Tây Đường:

- Có hỏi, có đáp thôi dẹp qua, không hỏi không đáp thì thế nào ?

Đường đáp:

- Sợ cháy để làm gì ?

Sư nghe thuật lại bèn nói:

- Từ trước nghi ông anh già này đấy.

Nói:

- Xin Hòa thượng nói cho.

Sư đáp:

- Một hiệp tưởng cũng không được2Nhất hợp tướngkhông thể nắm bắt được (bất khả đắc): Nhất hợp tướng: Các pháp do nhân duyên hợp thành gọi là nhất hợp tướng . Vì do nhân duyên hợp thành nên không có tự tánh (vô ngã), nghĩa là rỗng không, bất khả đắc..

*

Sư nói với chúng:

- Có một người lâu ngày không ăn cơm mà chẳng nghe nói đói, còn có người suốt ngày ăn mãi mà cũng không nói no.

Mọi người tắt họng. Vân Nham hỏi:

- Hòa thượng mỗi ngày lui cui như thế là vì ai ?

Sư đáp:

- Có một người cần.

Vân Nham hỏi:

- Vì sao không để y tự làm ?

Sư nói:

- Hắn không có sinh hoạt gia đình.

*

Sư thượng đường nói:

- Linh quang chiếu soi một mình, lìa xa căn trần. Chân thường thể lộ, chẳng liên quan văn tự. Tâm tánh không nhiễm, vốn tự tròn đầy. Chỉ cần lìa vọng duyên là Phật như như.

(Ngũ Đăng Hội Nguyên quyển 3).

*

Hỏi:

- Thế nào là pháp yếu của đốn ngộ Đại thừa ?

Sư nói:

- Các ông trước hết phải dứt các duyên, ngừng nghỉ mọi việc, Thiện và bất thiện, thế gian và xuất thế gian, nhất thiết các pháp đừng nghĩ nhớ, đừng niệm duyên mà hãy buông bỏ thân tâm, để cho được tự tại. Tâm như gỗ đá, không có cách nào biện biệt được Tâm không có chỗ hành, tâm địa trống trơn thì mặt trời tuệ tự hiện ra giống như mây hé thì mặt trời ló ra vậy. Chỉ cần chấm dứt mọi phan duyên cùng tham sân ái thủ, cấu tịnh tình tận, đối với ngũ dục3Ngũ dục: Năm thứ tham muốn do năm cảnh phát sanh. 1. Sắc dục: Tham sắc trần, 2. Thanh dục: Tham thanh trần, 3. Hương dục: Tham mùi hương, 4.Vị dục: Tham vị trần, 5. Xúc: Tham cảm xúc. Hoặc là 1. Tài dục: Tham tiền của, 2. Sắc dục: Tham sắc đẹp, 3. Danh dục: Tham danh vọng, 4. Thực dục: Tham ăn uống, 5. Thùy dục: Tham ngủ nghỉ. bát phong4Bát phong: Tám gió lay chuyển lòng người. 1.2- Lợi: được, Suy: mất, thua; 3.4- Hủy: chê, Dự: khen; 5.6. Xưng: vinh, Cơ: nhục; 7.8- Khổ: khổ; Lạc: vui.đều không động, không bị nghe thấy hiểu biết ràng buộc, không bị cái cảnh mê hoặc thì tự nhiên đầy đủ thần thông diệu dụng là người giải thoát.

Đối với mọi cảnh, tâm chẳng tịnh loạn không thâu nắm không buông bỏ, xuyên thấu mọi thanh sắc, chẳng có vướng kẹt, gọi là đạo nhân.

Lành dữ, phải trái đều chẳng vận dụng, lại cũng chẳng ái một pháp nào mà cũng chẳng buông bỏ một pháp nào, gọi là người Đại thừa. Không bị trói buộc bởi tất cả lành dữ, có không, dơ sạch, hữu vi vô vi, thế gian và xuất thế, phước đức trí huệ, gọi là Phật huệ.

Phải trái, xấu tốt, điều phải, điều quấy, các tri kiến tình  tận, chẳng thể trói buộc, xứ xứ tự tại, gọi là Bồ-tát sơ phát tâm, liền lên Phật địa.

*

Hỏi:

- Đối mọi cảnh, làm sao được tâm như gỗ đá ?

Sư nói:

- Tất cả mọi pháp, vốn chẳng tự nói không, chẳng tự nói sắc (có), lại cũng chẳng nói phải trái, dơ sạch, lại cũng chẳng có tâm trói buộc người. Nhưng do con người tự hư vọng tính toán, làm ra bao nhiêu là thứ hiểu biết, khởi biết bao là tri kiến, sanh ra biết bao là thương, sợ. Chỉ cần hiểu chư pháp không tự sanh ra, tất cả đều từ một niệm của mình, vọng tưởng điên đảo, giữ tướng mà có biết. Tâm và cảnh vốn không đến, đương xứ mà giải thoát.

Tất cả mọi pháp đương xứ mà tịch diệt, đương xứ đạo tràng vả tính bổn hữu không thể gọi tên, xếp thứ, bổn lai chẳng phải phàm mà cũng chẳng phải Thánh, chẳng phải dơ sạch mà cũng chẳng có không, lại cũng chẳng lành dữ, cùng các nhiễm pháp tương ưng, gọi là nhân thiên Nhị thừa giới. Nếu tâm chấp nhơ sạch chấm dứt, không trụ trói buộc, không trụ cởi mở, không có mọi hữu vi vô vi trói buộc thoát tâm xứ, tại sanh tử mà tâm ấy tự tại, rốt cùng không cùng với các vọng hư huyễn, trần lao uẩn giới, sanh tử chư nhân hòa hợp, thong dong chẳng nương gá, tất cả không câu thúc, tới ở chẳng ngăn ngại, tới lui sanh tử, như cổng mở một thứ.

Phàm người học đạo, nếu gặp mọi thứ buồn vui, vừa lòng hay trái ý, tâm chẳng so rụt, không nghĩ đến danh văn lợi dưỡng, y thực, không tham công đức lợi ích, không bị vướng kẹt bởi các pháp thế gian, không thân không thương, buồn vui thấy bình thường, mặc đồ thô để che lạnh, ăn cơm hẩm để cầu sống, ngố ngố như ngây như điếc mới có chút phần tương ưng. Nếu tại tâm học rộng chuyện hiểu biết, cầu phước cầu trí thì đều là sanh tử, đối với đạo lý nào có ích gì, bị gió cảnh thổi bay nhận chìm, quày trở lại trong biển sanh tử.

Phật là người không cầu, hễ cầu là trái lý. Đó là lý không cầu, hễ cầu là thất mát. Nếu nắm bắt vô cầu thì lại đồng như hữu cầu. Nếu nắm bắt trước vô vi thì cũng giống như hữu vi. Cho nên kinh nói: “Không thủ ở pháp, mà cũng không thủ ở chẳng phải pháp, cũng không thủ nơi chẳng phải chẳng phải pháp”. Lại nói: “Pháp mà Như Lai đắc, pháp này không thật không hư”.

Nếu làm được một đời tâm như gỗ đá một thứ, không bị bát phong, ngũ dục của ấm giới nhập thổi đùa nhận chìm thì dứt được nhân sanh tử, pháp trụ tự do. Không bị nhân giải của tất cả hữu vô trói buộc, không bị hữu lậu câu thúc. Lúc khác lại lấy không bị nhân trói buộc làm nhân, đồng sự lợi ích. Lấy tâm vô trước ứng với mọi vật, lấy tuệ vô ngại mở tất cả trói buộc. Cũng gọi là theo bệnh mà cho thuốc vậy.

*

Hỏi:

- Như nay thọ giới thân miệng thanh tịnh, đã đầy đủ cái thiện, vậy được giải thoát không ?

Sư nói:

- Giải thoát phần nhỏ thôi, chưa được tâm giải thoát, cũng chưa được tất cả mọi nơi giải thoát.

Hỏi:

- Thế nào là tâm giải thoát và tất cả mọi nơi giải thoát ?

Sư nói:

- Không cầu Phật, Pháp, Tăng cho đến cả không cầu các món phước trí, tri giải. Dơ sạch đều tình tận, lại cũng không thủ cái vô cầu này, mà vậy cũng chưa trụ chỗ tận cùng, lại cũng chẳng hân hoan thiên đường, không e sợ địa ngục, cởi khỏi trói chẳng vướng kẹt, tức thân tâm và tất cả mọi nơi đều gọi là giải thoát.

Người đừng nói có chút đỉnh giới thì thân, khẩu, ý đã tịnh và thế là xong rồi mà không Hằng hà sa số môn giới, định, tuệ và vô lậu giải thoát đều không đạt đến mảy may tự tại.

Hãy nỗ lực hướng về trước, nên dũng mãnh cứu thủ, đừng đợi đến khi tai điếc, mắt mờ, mặt nhăn, tóc bạc, cái khổ vì già đeo đẳng bên mình, bi ái triền miên, trong mắt trào lệ, trong tâm lo âu, chẳng biết tựa vào đâu, chẳng biết đi về đâu. Đến thời tiết đó, sửa soạn tay chân không còn kịp nữa. Dẫu có phước trí, danh tiếng, lợi dưỡng, cũng không thể cứu nhau được. Vì tâm và mắt chưa mở, chỉ niệm các cảnh, chẳng biết phản chiếu, lại cũng không thấy Phật đạo. Tất cả nghiệp duyên thiện ác sở hữu một đời đều hiện phía trước, hoặc vui hoặc lo sợ, lục đạo, năm uẩn, đồng thời hiện trước mắt. Nhà cửa đẹp sang, tàu bè xe cộ, sáng rỡ hiển hách, đều do nơi tự tâm tham ái mà hiện ra. Tất cả cảnh xấu đều biến thành cảnh đẹp đẽ. Nhưng theo tham ái chập chùng, nghiệp thức dẫn đưa, tùy chấp trước mà thọ sinh, đều là phần không tự do. Rồng thú, tốt xấu, đều cả thảy chưa định.

*

Hỏi:

- Làm sao được phần tự do ?

Sư nói:

- Như nay tuy cũng được đấy, nhưng hoặc đối ngũ dục, bát phong, tình không thủ xả, keo lận ganh tỵ, tham ái, ngã sở tình tận, cấu tịnh đều mất. Như mặt trăng mặt trời trên không, chẳng duyên mà chiếu tâm, tâm như gỗ đá, giây giây như cứu lửa cháy đầu. Nhưng lại cũng như voi thiêng qua sông, cắt dòng nước mà qua, rốt lại chẳng ngăn ngại vướng kẹt. Người đó cả thiên đường, địa ngục đều không thể nhiếp được.

Phàm đọc kinh xem giáo lý, lời lẽ đều nên uyển chuyển qui về tự kỷ. Nhưng tất cả ngôn giáo chỉ sáng như gương giác tự tín, mà không bị nhất thiết các cảnh hữu vô lay chuyển, thì đó là đạo sư của ông (tánh giác), có thể chiếu phá mọi thứ cảnh hữu vô, đó là tuệ kim cương. Tức là có được phần độc lập tự do. Nếu mà không hiểu được như thế thì cho dù có đọc hết kinh điển, chỉ thành Tăng thượng mạn, thành ra hủy báng Phật không phải người tu hành.

Chỉ cần rời tất cả mọi thanh sắc, mà cũng không trụ ở rời, lại cũng chẳng trụ ở hiểu biết, thì đó mới là tu hành, đọc kinh, xem giáo lý. Nếu chọn thế gian toàn chuyện tốt, đứng về phía những người sáng đạo lý, thì đó là kẻ bị ứ nghẹt. Người của thật địa cũng không thoát nổi phải tuôn chảy vào sông sinh tử. Bởi tam thừa giáo đều trị các bịnh tham sân, còn như nay đây niệm niệm nếu còn các bịnh tham sân, thì trước phải lo trị nó mà không cần phải cầu kiếm hiểu biết nghĩa câu. Hiểu biết thuộc tham, tham biến thành bệnh. Như nay đây chỉ cần rời xa các pháp hữu vô, mà cũng rời chuyện rời, thấu quá ngoài ba cú5Tam cú: Chư gia thiền tông vì muốn biểu hiện tông chỉ thiền nên dùng ngôn ngữ để khai thị tiếp dẫn học nhân. Chẳng hạn, tam cú của Vân Môn: “Hàm cái càn khôn, Mục cơ thù lạng, Bất thiệp vạn duyên”. Nghĩa là: Chơn lý tuyệt đối đầy khắp trời đất (Nhất tâm môn); Siêu việt ngôn ngữ văn tự, phải đốn ngộ nơi tự tâm (chơn như môn); Tùy duyên giáo hóa chúng sanh hồn tồn vô ngại (sanh diệt môn) (Từ trong ngoặc đơn nhằm đối chiếu Đại Thừa Khởi Tín Luận)., tự nhiên cùng Phật không khác. Khi đã tự là Phật, thì lo gì Phật không hiểu lời lẽ. Chỉ e không phải là Phật, bị các pháp hữu vô trói buộc, không được tự do. Do lý chưa lập mà trước lo phước trí, bị phước trí cuốn phăng đi, như kẻ hạ tiện sai khiến người cao quí. Không như nước biển cả đổ vào lỗ chân lông. Từ một nghĩa làm ra vô lượng nghĩa, từ vô lượng nghĩa làm một nghĩa. Mong người cẩn trọng!

*

Sư có lúc nói pháp xong, đại chúng hạ đường bèn gọi lại. Đại chúng quay đầu lại thì sư nói:

- Đó là cái gì ?

(Dược Sơn thấy điều này cho là “Bách Trượng hạ đường cú”)

*

Có vị Tăng hỏi:

- Cuốc cỏ chặt cây, khai mương đào đất, có tướng tội báo chăng?

Sư đáp:

- Không thể nói quyết định có tội, cũng không thể nói quyết định không tội, có tội không tội việc tại người đương thời. Nếu tham nhiễm tất cả pháp có, không... có tâm lấy bỏ, còn chưa vượt khỏi ba câu, người này nhất định nói có tội. Nếu vượt ngoài ba câu, tâm như hư không, cũng chẳng tưởng hư không, người này nhất định nói không tội.

Lại nữa, nếu tạo tội rồi, nói không thấy có tội thì thật vô lý. Nếu không làm tội, mà nói có tội thì cũng vô lý. Như trong Luật, do mê giết người và chuyển tướng giết, còn không phạm tội sát. Huống là Thiền tông truyền trao nhau tâm như hư không, không dừng ở một vật, cũng không có tướng hư không, thì đem tội để ở chỗ nào?

*

Có vị Tăng hỏi:

- Thế nào là “hữu tình không Phật tánh, vô tình có Phật tánh”?

Sư đáp:

- Từ người đến Phật là tình chấp thánh, từ người đến địa ngục là tình chấp phàm. Chỉ như hiện nay đối hai cảnh phàm, thánh có tâm nhiễm ái gọi là “hữu tình không Phật tánh”. Hiện nay đối hai cảnh phàm, thánh và tất cả pháp có, không... trọn không có tâm lấy bỏ, cũng không cái hiểu biết không lấy bỏ, ấy là “vô tình có Phật tánh”. Chỉ không có tình ràng buộc, nên gọi vô tình. Không đồng với loài vô tình như: cây, đá, hư không, hoa vàng, trúc biếc, mà cho là có Phật tánh. Nếu nói loài vô tình ấy có Phật tánh, tại sao trong kinh không thấy thọ ký được thành Phật?. Chỉ cái giác chiếu soi hiện nay không bị hữu tình thay đổi, dụ như trúc biếc, ứng cơ biết thời thiết dụ như hoa vàng.

Lại, nếu bước lên nấc thang Phật thì vô tình có Phật tánh, chưa bước lên nấc thang Phật thì hữu tình không Phật tánh.

*

Sư thượng đường nói:

- Ánh sáng linh ngộ tự chiếu diệu, thoát ly căn trần tục thế. Bổn tính hiển lộ chân thật vĩnh hằng, không cần câu nệ chữ nghĩa, lời lẽ. Tâm tính trong sạch không nhiễm dơ bẩn, bổn lai đã viên mãn hoàn thành.

Chỉ cần xa lìa hư vọng trần duyên, lập tức giác ngộ như Phật thôi.

(Theo Cổ Tôn Túc Ngữ Lục)

*

Sư thượng đường, đại chúng vừa tụ tập, sư liền lấy gậy đánh đuổi

mọi người, rồi lại gọi mọi người. Mọi người quay đầu lại, sư nói:

- Là cái gì vậy ?

(Theo Cổ Tôn Túc Ngữ Lục)

*

Nhất nhật bất tác, nhất nhật bất thực

Bách Trượng Hoài Hải là vị thiền sư đầu tiên thiết lập một cộng đồng tự viện ở Trung Quốc với những luật lệ quy củ rõ ràng và nhấn mạnh đến việc lao động chân tay trong nhà thiền bao gồm trong quyển Bách Trượng Thanh Quy.

Ở vào tuổi tám mươi, Sư vẫn tiếp tục lao tác trên đồng ruộng mỗi ngày.

Sư phàm làm công việc, nhận chuyện nặng nhọc tất trước mọi người. Chủ sự tăng không đành lòng, lén giấu dụng cụ mời sư nghỉ ngơi.

Sư nói:

- Ta vô đức sao lại làm lao nhọc người khác ?

Đoạn tìm dụng cụ khắp nơi mà không gặp thì cũng không ăn. Do đó mà có câu nói của sư “Nhất nhật bất tác, nhất nhật bất thực; 一日不作一日不食” (Ngày nào không làm, ngày đó không ăn) lưu truyền khắp nơi.

Sư chế định Thanh Quy, hướng dẫn đại chúng tu trì. Thanh Quy tức là quy định sinh hoạt của Tăng đoàn theo chế độ nông thiền (làm ruộng).

Noi theo con đường của Tứ Tổ Đạo Tín, người sáng lập ra cộng đồng độc lập đầu tiên của các thiền sư, Bách Trượng nhấn mạnh đến mối liên hệ giữa phương pháp tọa thiền và công việc hằng ngày trong tự viện hay trên các cánh đồng.

Thanh Quy do Sư lập ra được gọi là Bách Trượng Thanh Quy (百丈古清規), được khắp các tùng lâm trong thiên hạ tuân phụng.

Theo qui luật mới, thiền sinh làm việc tự nuôi sống (các Tỉ-khâu thời Phật Thích-ca không được phép làm việc) nhưng song song với công việc hằng ngày, Sư vẫn giữ lại truyền thống đi khất thực và cho đó là một phương tiện tu luyện tâm. Mặc dù nguyên bản của quyển sách này đã mất nhưng các qui luật này vẫn còn được tuân hành nghiêm chỉnh cho đến ngày nay.

Trước tác Bách Trượng Cổ Thanh Quy (百丈古清規) của sư hiện chỉ còn lại phần tựa mà thôi, nhưng lịch sử Thiền Tông Trung Hoa không bao giờ quên được rằng chính Sư là người sáng lập ra thanh quy của Thiền lâm. Từ đó trở đi, Thiền trở thành một bộ phận gắn liền với sinh hoạt phong thổ Trung Hoa. Tống Nho phỏng theo nó mà sáng lập các thư viện, ba triều Nguyên, Minh, Thanh lại lấy thư viện làm Hương học (trường làng) là nơi dưỡng sĩ (đào tạo kẻ sĩ), đều là ơn của sư.

Ngày 17 tháng giêng năm thứ chín niên hiệu Nguyên Hòa (元和)  nhà Đường (814 - Đường Hiến Tông) sư qui tịch,Thọ 95 tuổi.

Năm Trường Khánh nguyên niên (821- Đường Mục Tông), vua ban thụy hiệu là Đại Trí Thiền Sư (大智), VỀ sau, các vua đời Tống, Nguyên lại ban thụy hiệu Giác Chiếu (覺照), Hoằng Tông Diệu Hạnh (弘宗妙行), tháp tên Đại Bảo Thắng Luân.

Sư để lại nhiều bài thuyết giảng quí báu trong Bách Trượng quảng lục và Bách Trượng ngữ lục. Trong đó Sư đề cao việc “Lìa bỏ tất cả những vọng tưởng tức như như Phật” và khuyên thiền sinh tu tập pháp môn vô phân biệt, Bất nhị.

[X. Bách Trượng Thanh Qui Q.thượng Trụ Trì Chương; Tống Cao Tăng Truyện Q.10; Cảnh Đức Truyền Đăng Lục Q.6]. (xt. Hoài Hải).

---o0o---

Thiền Môn Qui Thức

Thiền sư Bách Trượng Đại Trí cho rằng từ khi Thiền tông khải phát ở Thiếu Lâm kế đến là Tào Khê cho đến nay phần nhiều ở trong chùa Luật. Tuy là có viện riêng nhưng về khoản thuyết pháp trụ trì, cũng không hợp qui củ. Cho nên ngài thường lưu tâm đến việc này mới nói rằng:

- Đạo của Tổ muốn bố hóa rộng rãi ở Trung Nguyên, hầu mong chỗ bến bờ đạt đến không cùng tận, há lại cùng chư bộ giáo A cấp ma6(Phạn ngữ, cựu dịch là A-hàm, tân dịch là A cấp ma, tức là giáo điển tiểu thừa) sánh vai sao ?

Có người nói:

- Kinh Du-già Anh Lạc là giới luật của Đại thừa, thế sao lại không nương theo ?

Sư nói:

- Tông môn của ta không giống Đại Tiểu thừa mà cũng khác Đại Tiểu thừa, nên cần phải rộng cân nhắc chiết trung lập nơi chế phạm, nhằm vào chuyện thích nghi mà thôi.

Thế là sáng ý, biệt lập Thiền cư. Phàm có kẻ có đạo đức gồm đủ đạo nhãn đáng tôn kính gọi là Trưởng lão, giống như bên Tây Vực người đạo cao lạp trưởng được gọi là Tu-bồ-đề vậy. Đã là Hóa chủ thì ở nơi phương trượng, cùng trượng thất với Tịnh Danh, không phải là chỗ ngủ riêng. Không lập Chánh điện7không lập điện thờ Phật, chỉ thọ Pháp đường mà thôi, biểu trưng sự thân phó chúc của Phật, Tổ, được đời nay tôn kính, về phần học chúng thì không kể nhiều ít, cao thấp, đều phải ở tại tăng đường, y theo thứ lớp tuổi hạ mà an bày. Thiết lập giường Thiền dài, có móc bình bát cùng đạo cụ. Nằm tất nghiêng bên hông phải theo thế cát tường mà ngủ, ấy là do ngồi Thiền đã lâu cần phải ngơi nghỉ mà thôi.

Về phần bốn oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi, ngoại trừ khi vào thất thưa hỏi, mặc cho người học hoặc cần kíp hoặc huỡn đãi, hoặc trên hoặc dưới, không theo tiêu chuẩn thường lệ nào, còn kỳ dư đại chúng trong  viện, tùy theo sớm tham, tối tựu. Trưởng lão thăng đường lên tòa Chủ sự. Đồ chúng đứng co theo kiểu cách của chim hạc8sự sắp xếp chúng thành hàng hai bên lắng nghe, lắng tai mà nghe.

Chủ khách hỏi đáp, kích dương Tông chỉ, y theo pháp mà trụ. Trai trưa, cháo sớm hai bữa tùy nghi đều khắp, chỉ nhằm tiết kiệm, biểu pháp thực song vận mà thôi. Khi thi hành lao động tập thể, cả kẻ trên người dưới đều phải nỗ lực, trí thập vụ9Đặt ra mười nhiệm vụgọi là liêu xá, thường dùng một người cầm đầu, quản lý nhiều người làm công việc, khiến mỗi người đều lo chỉ huy thuộc viên của mình.(Người coi việc cơm gọi là phạn đầu, coi việc rau gọi là thái đầu…, những việc khác đều phỏng theo đó gọi tên).

Nếu có kẻ giả hiệu, trộm hình trà trộn trong thanh chúng, cùng tạo ra tình hình huyên náo rối rắm, tức tăng duy-na kiểm nghiệm, đuổi ra khỏi tự viện, để an thanh chúng. Hoặc có tăng phạm lỗi nặng thì dùng gậy mà đánh phạt, rồi sau đó tập hợp tăng chúng lại, đốt bỏ y bát và đạo cụ, mục đích là sỉ nhục cho thẹn. Lại chế ra bốn ích là:

1- Chẳng làm ô uế thanh chúng, sanh cung kính.

(Ba nghiệp bất thiện, không nên ở chung. Y

theo luật phải dùng pháp Phạm đàn để sửa trị họ, phải đuổi ra khỏi thiền viện thì thanh chúng có an, mới sanh lòng kính tin).

2- Chẳng hủy tăng hình, làm vững vàng Phật chế.

(Tùy nghi trừng phạt, được giữ áo pháp, sau phải hối lỗi).

3- Chẳng phiền nhiễu công môn, tránh xa việc tụng hình nơi nhà ngục.

4- Chẳng tiết lậu chuyện nội bộ ra ngoài, bảo hộ cương lĩnh tông môn.

(Ai xét rõ bốn điều vừa nêu để phàm thánh đồng cư. Vả Như Lai ứng thế còn có đảng lục quần, huống chi nay là thời tượng mạt pháp, đâu thể được hồn tồn không sai. Nếu thấy một vị tăng có lỗi liền hay nổi lên chê cười, thật chẳng ngờ vì khinh chúng mà hoại pháp, tổn hại đó rất lớn.

Nay muốn cho Thiền môn càng ít phương hại thì nên y theo cách thức tùng lâm của Bá Trượng. Xét việc phân công, vẫn lập pháp tắc phòng gian, đâu phải ai cũng là hiền sĩ, thà có pháp tắc mà không phạm đâu thể có phạm mà không dạy bảo, chính

nhờ sự lợi ích hộ pháp của thiền sư Bá Trượng, nó quan trọng vậy thay!).

Thiền môn đi riêng một đường bắt đầu từ Bách Trượng vậy. Nay xin nêu đại lược ít điều cương yếu, bày tỏ khắp học giả đời sau, khiến chẳng quên gốc vậy. Còn các quy định khác, nhà Thiền đều gồm đủ cả.

---o0o---

Bách Trượng Thanh Quy

Bách Trượng Thanh Quy gồm 2 quyển, cũng còn gọi là Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy, thu vào quyển 48 Đại Chánh Tạng, do Thiền sư Bách Trượng Hoài Hải (720-814) chế đính từ quyển Thanh Quy.

Lúc đầu, khi Thiền tông vừa mới hình thành, chốn Thiền lâm Trung Quốc vẫn chưa có chế độ, nghi thức, cho nên quyển Cổ Thanh Quy đặt ra chế độ nào là Pháp đường, Tăng đường và Phương trượng.

Lại qui định chúng tăng phân biệt, đảm nhiệm các chức vụ như Đông tự, Đường chủ, Hóa chủ, Liêu nguyên, do từ thế kỷ thứ 8 cho đến thứ 9, Thiền tông Trung Quốc thoái ly khỏi chùa Luật, duy trì quy phạm độc đặc của sinh hoạt giáo đoàn mình.

Sách này phân ra thượng và hạ hai quyển, gồm có chín chương.

Quyển thượng có chương Chúc Ly đệ nhất, chương Báo Ân đệ nhị, chương Báo Bổn đệ tam, chương Tôn Tổ đệ tứ, chương Trụ Trì đệ ngũ.

Quyển hạ có chương Lưỡng Tự đệ lục, chương Đại Chúng đệ thất, chương Tiết Lạp đệ bát và chương Pháp Khí đệ cửu.

Trong chín chương này, chương Chúc Ly ghi chép các ngày vía chư Thánh, ngày chúc tán cảnh mệnh tứ thai, chú tán đán vọng tạng điện, chúc tán mỗi ngày, hoặc đối với các ngày thiện thu, thiện nguyệt, chúc nhà vua Thánh thọ vạn tuế.

Đó là nghi lệ giáo đoàn dưới sự khống chế của quyền lực quốc gia.

Chương Tôn Tổ tập thuật ngày kỵ trai của chư Tổ. Chương Đại Chúng thu lục phương thức tọa Thiền, quy phạm Thiền viện tu tập sinh hoạt cùng với những sửa đổi do Bách Trượng Thanh Quy chế định. Nguyên hình quyển Thanh Quy do Hoài Hải chế định ở đời đã thất lạc. Cho đến năm đầu niên hiệu Chí Nguyên đời vua Thuận Đế nhà Nguyên (1335), Đông Dương Đức Huy vâng sắc mệnh vua Thuận Đế lấy quyển Thiền

Uyển Thanh Quy của Tông Trách và Tùng Lâm Hiệu Đính Thanh Quy hiệu chính lại, đó tức là bộ hai quyển Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy vậy.

---o0o---

Những Công Án

1) Bách Trượng Dã Hồ: Theo thí dụ thứ 2 của Vô Môn Quan, mỗi lần sư thượng đường đều có một ông lão trà trộn trong chúng nghe pháp. Ngày kia mọi người lui ra cả chỉ còn ông lão nán lại không

đi. Sư hỏi:

- Ông là ai ?

Ông lão nói:

- Con đây không phải người ta. Vào thời quá khứ Phật Ca Diếp con từng trụ ở núi này. Nhân người học hỏi: “Kẻ đại tu hành có còn rơi vào nhân quả không ?”, con đáp là: “không rơi vào nhân quả” liền bị đọa thân chồn năm trăm đời rồi. Nay xin Hòa thượng nói thay cho một chuyển ngữ để thoát khỏi thân chồn rừng.

Sư nói:

- Ông hỏi đi.

Ông lão nói:

- Người đại tu hành còn rơi vào nhân quả nữa không ?

Sư nói:

- Không mờ mất nhân quả.

Lão nhân vừa nghe là ngộ ngay, vái lạy nói:

- Con đã thoát khỏi kiếp chồn trụ sau núi, dám xin đưa giùm kẻ vong tăng.

Sư bảo duy-na đánh chùy báo cho chúng biết sau giờ ăn đưa tiễn ông tăng qua đời. Mọi người tụ tập lại bàn tán, tất cả đều mạnh khỏe, tại Niết-bàn đường cũng không có bịnh nhân nặng nằm chờ chết thì tại sao lại lệnh như vậy ? Ăn cơm xong sư dẫn chúng đến hang sau húi, lấy gậy khều xác một con chồn chết, rồi theo phép hỏa táng. Đến tối sư thượng đường, nói rõ nhân duyên đời trước. Hoàng Bá liền hỏi:

- Người xưa chỉ đáp sai có một câu chuyển ngữ mà phải đọa thân chồn năm trăm kiếp. Nếu chuyển ngữ mà không sai thì sẽ thành cái gì ?

Sư bảo:

- Xích lại gần đây, ta sẽ nói cho ông nghe.

Hoàng Bá tiến đến gần đánh sư một cái tát. Sư vỗ tay cười:

- Tưởng đâu chỉ có ông chà-và râu đỏ10Bồ Đề Đạt Ma, nào hay lại có ông Ấn Độ đỏ râu.

(Quy Sơn đem việc này hỏi Ngưõng Sơn, Ngưỡng đáp:

- Hoàng Bá thường dùng cơ phong đó.

Quy nói:

- Ông nói xem đó là trời sanh thế, hay do người mà được thế ?

Ngưỡng nói:

- Đó cũng là do bẩm thụ sư thừa, mà cũng là do tự tánh tông thông.

Qui nói:

- Đúng vậy, đúng vậy).

Lúc bấy giờ, Quy Sơn làm điển tòa trong hội. Tư Mã đầu-đà đem lời dã hồ hỏi điển tòa:

- Làm thế nào ?

Điển tòa lay cánh cửa ba lần. Tư Mã nói:

- Thô quá tay.

Điển tòa nói:

- Phật pháp không phải đạo lý này.

2) Bách Trượng Dã Ngan: Thí dụ thứ 53 của Bích Nham Lục.

Sư theo hầu Mã Tổ đi đường thấy một bầy vịt trời bay qua. Tổ nói:

- Đó là gì ?

Sư nói:

- Vịt trời.

Tổ nói:

- Bay về đâu vậy ?

Sư nói:

- Bay qua đi rồi.

Tổ bèn bóp mũi sư đau đến mức phải la lên. Tổ nói:

- Lại nói bay qua nè11"Theo Viên Ngộ trong Bích Nham Lục, chánh nhãn xem ra lại là Bách Trượng đủ chánh nhơn. Mã Tổ không gió dậy sóng. Các ông cần cùng Phật, Tổ làm thầy tham lấy Bách Trượng, cần tự cứu chẳng xong tham lấy Mã Tổ. Xem cổ nhân trong mười hai giờ chưa từng chẳng ở trong ấy. Bách Trượng xuất gia từ thuở nhỏ, học tập giới định huệ, gặp lúc Mã Tổ xiển hóa ở Nam Xương tận tâm nương đỗ, hai mươi năm làm thị giả, cho đến tái tham dưới tiếng hét mới được đại ngộ. Hiện nay có người nói: "Vốn không chỗ ngộ, làm cái cửa ngộ, dựng lập việc này". Nếu kiến giải như thế ấy, như trùng trong thân sư tử ăn thịt sư tử. Đâu chẳng thấy cổ nhân nói: "Nguồn chẳng sâu thì dòng không dài; trí chẳng lớn thì thấy chẳng xa". Nếu hiểu là dựng lập thì Phật pháp đâu đến ngày nay. Xem Mã Tổ cùng Bách Trượng đi dạo vườn thấy bầy vịt trời bay qua, Mã Tổ đâu không biết vịt trời, tại sao lại hỏi thế ấy? Hãy nói ý của ngài rơi tại chỗ nào? Bách Trượng chỉ biết chạy theo sau. Mã Tổ nắm lỗ mũi Bách Trượng vặn mạnh, Bách Trượng chịu đau không nổi nên la lên. Mã Tổ bảo: "Đâu từng bay qua." Bách Trượng liền tỉnh ngộ. Ngày nay có người hiểu lầm, vừa hỏi đến liền la lên, buồn cười nhảy chẳng ra. Hàng tông sư vì người phải chỉ dạy cho thấy tột. Nếu họ chưa hiểu, chẳng nệ chạm bén đứt tay, chỉ cốt dạy họ rõ được việc này. Vì thế nói, hội thì giữa đường thọ dụng, chẳng hội thì thế đế lưu bố. Mã Tổ đương thời, nếu chẳng nắm đứng thì chỉ thành thế đế lưu bố. Phải là thấy cảnh gặp duyên xoay trở, dạy trở về chính mình, trong mười hai giờ không chỗ khiếm khuyết, gọi đó là tánh địa minh bạch. Nếu chỉ nương cỏ gá cây, nhận cái trước lừa sau ngựa, có dùng được vào chỗ nào?. Xem Mã Tổ, Bách Trượng dụng thế ấy, tuy giống như sáng tỏ tinh lanh, mà chẳng ở chỗ sáng tỏ tinh lanh. Bách Trượng chịu đau không nổi la lên, nếu thấy thế ấy thì khắp cõi chẳng giấu, mỗi mỗi hiện thành. Vì thế nói, một chỗ thấu thì ngàn chỗ muôn chỗ đồng thời thấu..

Vừa nghe lời nói đó sư chợt tỉnh. Thế là sư trở về liêu của thị giả, khóc lớn ưng ức. Đồng sự hỏi rằng:

- Ông nhớ cha mẹ chăng ?

Sư nói:

- Không.

Lại hỏi:

- Bị người ta chửi chăng ?

Sư nói:

- Không.

Hỏi:

- Thế khóc chi vậy ?

Sư nói:

- Lỗ mũi tôi bị sư phụ nhéo đau quá cỡ.

Đồng sự nói:

- Có duyên cớ gì không khế hợp chăng ?

Sư nói:

- Ông hỏi Hòa thượng đi.

Đồng sự hỏi đại sư rằng:

- Hoài Hải thị giả có việc gì không khế hợp đang khóc trong liêu, xin Hòa thượng nói cho tôi rõ.

Đại sư nói:

- Đó là y đã hiểu ra. Ông hãy đi hỏi y.

Đồng sự trở lại liêu hỏi:

- Hòa thượng nói ông hiểu rồi, bảo ta tự đi hỏi ông.

Sư bèn ha hả cười lớn. Đồng sự hỏi:

- Mới vừa rồi khóc, bây giờ sao lại cười ?

Sư nói:

- Vừa mới nãy thì khóc bây giờ cười.

Đồng sự hoang mang chả hiểu gì cả. Hôm sau Mã Tổ thăng đường, chúng vừa tụ tập, sư liền bước ra cuốn chiếu, Tổ liền xuống tòa. Sư theo đến phương trượng. Tổ nói:

- Mới vừa rồi ta chưa kịp nói, ông vì sao lại cuốn chiếu ?

- Hôm qua bị Hòa thượng nhéo đau cả mũi.

Tổ nói:

- Hôm qua ông để tâm vào việc gì ?

Sư nói:

- Mũi hôm nay không đau nữa.

Tổ nói:

- Ông đã biết rõ việc hôm qua.

Sư làm lễ rồi lui.

3) Bách Trượng Độc Tọa Đại Hùng Đỉnh:

Thí dụ thứ 26 của Bích Nham Lục. Một vị Tăng hỏi Bách Trượng:

- Thế nào là việc kỳ đặc?

Bách Trượng đáp:

- Ngồi một mình trên núi Đại Hùng.

Vị Tăng lễ bái. Bách Trượng liền đánh.

Theo Viên Ngộ trong Bích Nham Lục, gặp cơ đủ mắt chẳng đoái nguy vong, cho nên nói chẳng vào hang cọp đâu bắt được cọp con. Bách Trượng bình thường dường như cọp chụp mồi. Vị Tăng nầy cũng chẳng sợ chết sống, dám nhổ râu cọp, nên hỏi thế nào là việc kỳ đặc?. Vị Tăng nầy đã đủ con mắt sáng, nên Bách Trượng cho ông gánh vác, nói:

- Ngồi riêng một mình trên núi Đại Hùng.

Ông liền lễ bái. Thiền Tăng phải biện biệt ý trước khi hỏi mới được. Vị Tăng nầy lễ bái cùng việc lễ bái hằng ngày chẳng đồng, phải là người đủ mắt sáng mới được. Chớ đem gan mật bình sanh trút cho người, biết nhau lại như chẳng biết nhau. Chỉ xem vị Tăng hỏi:

- Thế nào là việc kỳ đặc?

Bách Trượng đáp:

- Ngồi riêng một mình trên núi Đại Hùng.

Vị Tăng lễ bái, Bách Trượng liền đánh. Kia buông đi đồng thời đều phải thâu lại thì quét sạch dấu vết. Hãy nói vị Tăng liền lễ bái, ý chỉ thế nào?. Nếu bảo là tốt, tại sao Bách Trượng lại đánh ông? Nếu bảo là chẳng tốt, ông lễ bái có chỗ nào là chẳng được?. Đến trong đây phải biết hay dở, rành trắng đen, đứng trên ngàn ngọn núi mới được. Vị Tăng nầy liền lễ bái, giống như nhổ râu cọp, chỉ dành cho nhau chỗ chuyển thân. May gặp Bách Trượng có con mắt tại đỉnh môn, trong tay có thần phù chiếu thấu bốn thiên hạ, biện rõ lai phong, cho nên liền đánh. Nếu là kẻ khác thì không làm gì được y. Vị Tăng nầy lấy cơ đầu cơ, dùng ý dẹp ý, cho nên lễ bái. Như Nam Tuyền nói:

- Canh ba đêm qua Văn Thù, Phổ Hiền khởi Phật kiến, pháp kiến, cho mỗi vị hai mươi gậy, đày đến hai ngọn núi Thiết Vi.

Triệu Châu ra chúng thưa:

- Gậy của Hòa Thượng bảo ai ăn?

Nam Tuyền nói:

- Vương lão sư có lỗi gì?" Triệu Châu liền lễ bái. Bậc Tông sư bình thường chẳng thấy chỗ thọ dụng, vừa gặp lúc đương cơ nêu ra, tự nhiên sống linh động. Ngũ Tổ tiên sư thường nói: "Giống như hai con ngựa đá nhau, ông chỉ thường tập thấy nghe thanh sắc, đồng thời ngồi dứt, nắm được đứng, làm chủ được mới thấy Bách Trượng và vị Tăng kia".

4) Bách Trượng Vấn Vân Nham :

Quy Sơn, Ngũ Phong, Vân Nhạc đang đứng hầu, sư hỏi Quy Sơn:

- Gom bịt một lượt yết hầu, môi mép, làm sao nói được ?

Sơn nói:

- Xin Hòa thượng nói cho.

Sư nói:

- Chẳng từ chối nói cho ông, chỉ sợ sau này làm hại đến con cháu ta.

Sư lại hỏi Ngũ Phong câu đó. Phong đáp:

- Hòa thượng cũng nên gom bịt một lượt đi.

Sư nói:

- Chốn không người che trán trông nhìn ông12Chỗ không có ai, ta bửa cái trán mà trông ông.

Lại hỏi đến Vân Nham. Nham nói:

- Hòa thượng có chưa vậy ?

Sư nói:

- Làm hại con cháu ta.

Theo Viên Ngộ trong Bích Nham Lục, Vân Nham ở chỗ Bách Trượng hai mươi năm làm thị giả, sau theo Đạo Ngộ đến Dược Sơn. Dược Sơn hỏi:

- Ông ở trong hội Bách Trượng làm việc gì?

Vân Nham thưa:

- Vượt khỏi sanh tử

Dược Sơn hỏi:

- Lại vượt khỏi chưa?

Vân Nham nói:

- Y không sanh tử

Dược Sơn nói:

- Hai mươi năm ở chỗ Bách Trượng mà tập khí chưa trừ.

Vân Nham từ giã ra đi yết kiến Nam Tuyền, sau trở lại Dược Sơn mới khế ngộ. Xem cổ nhân hai mươi năm tham cứu vẫn tự nửa xanh nửa vàng, dính da kẹt xương, không thể chóng thoát, phải ắt là phải, chỉ trước chẳng kết thôn, sau không tạo điếm. Đâu chẳng thấy nói: "Lời chẳng rời hang ổ, đâu hay thoát buộc ràng, cửa hang mây trắng phủ, biết bao người quên nguồn." Tông Tào Động gọi là xúc phá. Cho nên nói: "Đạp toan sơn trượng lầu phụng hoàng, thời nhơn hiềm xúc thời nay hiệu." Vì thế nói rừng gai góc phải vượt qua mới được. Nếu chẳng vượt qua trước sau đều mắc kẹt, chặt chẳng đứt. Vừa rồi nói trước chẳng kế thôn, sau không tạo điếm, Vân Nham chỉ quản đi kiểm điểm người khác. Bách Trượng thấy Sư như thế, một lúc lôi đánh chết

5) Bách Trượng Tâm Thức Vô Trụ:

Thiền sư Bách Trượng Hoài Hải dạy: "Nếu tâm của mấy ông đang dong ruổi buông lung ở đâu đó, mấy ông đừng chạy theo nó, tự nó sẽ dừng bước buông lung. Nếu tâm của mấy ông muốn nấn ná lại một nơi nào đó, mấy ông đừng theo nó và cũng đừng nấn ná lại với nó, thì việc đi tìm nơi trụ lại của tâm thức của mấy ông sẽ tự nó chấm dứt. Như vậy, mấy ông sẽ có được một tâm thức vô trụ, một tâm thức sẽ ở mãi trong trạng thái vô trụ. Nếu ngay nơi mấy ông, mấy ông ý thức hoàn toàn về một tâm thức vô trụ, mấy ông sẽ phát hiện rằng có sự việc định trú, với ý niệm rằng không có cái gì để làm chỗ trụ và cũng không có cái gì để làm nơi không trụ. Ý thức đầy đủ này ở ngay cái tâm vô trụ được biết như là một sự nhận thức rõ ràng về cái tâm của mình, hay nói cách khác, nhận thức rõ ràng về chân tánh của chính mấy ông"

6) Bách Trượng  Ý Thức Hiện Tiền Kính:

Trong “Bách Trượng Ngữ Lục Và Hành Trạng”, Thiền sư Bách Trượng đã dạy: "Khi đọc kinh điển và nghiên cứu các học thuyết, bạn phải chuyển văn tự và đem chúng áp dụng cho chính bạn. Nhưng tất cả những lời giảng khẩu truyền chỉ chỉ ra tánh cố hữu của tấm gương hiện tiền của ý thức. Chừng nào tấm gương này chưa bị tác động bởi bất cứ vật gì hiện hữu hay phi hiện hữu, nó là người hướng dẫn của bạn. Tấm gương có thể chiếu sáng qua các cảnh giới hiện hữu và phi hiện hữu. Đó là kim cang trí trong đó bạn có phần trong sự tự do và độc lập. Nếu bạn không thể hiểu theo cách này, thì dầu cho bạn có tụng hết kinh điển cùng tất cả những cành nhánh tri kiến của nó, chỉ làm cho bạn trở nên kiêu ngạo và tỏ ra khinh thường Phật một cách ngược ngạo mà thôi, đó không phải là cách tu tập chân chính" .

---o0o---

Bách Trượng là một nhà cải cách

Thiền Sư Bách Trượng: một nhà cải cách, người đã giúp cho Truyền Thống Thiền Trung Hoa tồn tại trong cuộc bách hại Phật giáo dưới thời vua Đường Vũ Tông

Bách Trượng là một nhà cải cách, người đã cấu trúc lại những Thiền viện giúp cho truyền thống này tồn tại cuộc bách hại Phật giáo xảy ra chỉ ba mươi năm sau ngày Sư thị tịch. Cuộc  bách hại Phật giáo đồ ở Trung Quốc vào cuối đời Nhà Đường (618-907), đặc biệt là vào thời Vua Đường Vũ Tông vào năm 845 sau Tây lịch, đã hủy diệt 4.600 tự viện và khiến cho hơn hai trăm năm chục ngàn Tăng Ni hoàn tục. Sự suy vi của Phật giáo thời bấy giờ quả là lớn lao, chỉ trừ Thiền tông. Kỳ thật, đến đầu đời nhà Tống thì tông phái này phát triển đến tột đỉnh.  Tuy nhiên, khi số lượng tăng thì phẩm chất giảm và mất dần tánh đúng đắn trong việc đi tìm chơn tâm Phật tánh mà các thế hệ Thiền đời trước đã nhắm đến. Lại có thêm khuynh hướng pha trộn Thiền với các tông phái khác, đưa đến việc chỉ muốn lợi lạc về tri thức chứ không còn muốn thực tập Thiền nữa. Có nhiều lý do khiến cho các thành viên của giai cấp thống trị tiếp tục chống lại Phật giáo.

Trước tiên, Phật giáo được nhìn bởi Khổng giáo bản địa như là một tôn giáo ngoại lai mà những ý kiến bình đẳng của nó là một mối đe dọa cho trật tự xã hội đang tồn tại.

Thứ nhì là những nhà cai trị chống lại sự kiện một vài tự viện đã tích lũy tài sản kết sù và họ chỉ là nơi trú ngụ cho những cá nhân trốn tránh quân dịch hay trốn sưu lậu thuế mà thôi.

Thứ ba, những tự viện lệ thuộc vào cúng dường của thí chủ để duy trì và trong nhiều trường hợp chư Tăng được yểm trợ bởi tài vật cúng dường đã trở thành những kẻ ăn bám mà chẳng hoằng dương chánh pháp cũng chẳng đóng góp gì cho xã hội. Bách Trượng hiểu rằng Thiền tự cũng không tránh khỏi sự lạm dụng này, mặc dầu vì Thiền viện thường có khuynh hướng tọa lạc tại những vùng xa xôi nên không gây chú ý như các chùa viện của các tông phái Phật giáo khác. Bách Trượng tin rằng chư Thiền Tăng nên tự túc và yêu cầu họ sản xuất thực phẩm cho chính mình hơn là lệ thuộc vào tài vật cúng dường hay sức lao động của người khác. Vì một vài tông phái Phật giáo cấm chỉ chư Tăng trong bất cứ sinh hoạt nào, bao gồm việc cày cấy, vì rất có thể không tránh được việc sát hại sinh vật, dầu nhỏ thế mấy, những cải cách của Bách Trượng là một cuộc cách mạng trong Phật giáo thời bấy giờ. Bách Trượng đã hợp thức hóa những kim chỉ nam đã có từ trước trong truyền thống Thiền thành một bộ thanh qui chính thức. Cấu trúc những ngôi tự viện của Bách Trượng bao gồm cả lao động chân tay và tu tập thiền định. Cả hai đều là những phần tương đương trong việc tu tập, và phần này không thể được xem là hơn phần kia.

Contact Information

Phone
Array
Address Array
This entry was posted in . Bookmark the permalink.