TS Bảo Lượng

Personal Information

Danh Tánh
TS Bảo Lượng
Gender ♂️ Male

Hành Trạng

Additional Info

Ngài họ Từ, Tổ Tiên Ngài vốn ở Vị Tộc Đông Hoàn. Sau đó nhà Tấn thì Xuất Gia, thờ Pháp Sư Đạo Minh ở Thanh châu. Thầy Minh cũng là vị tăng nghĩa học, nổi tiếng đương thời. Ngài Bảo Lượng vào thọ học chuyên tinh, nhớ kỹ không sót. Đến sau khi thọ cụ túc bèn muốn du phương hoằng hoá. Hễ dạy bảo điều gì đều có căn cứ, chưa thể vượt khỏi sự hệ luỵ của cảnh duyên.

Thầy Minh bảo: Sa Môn bỏ tục phải lấy việc tuyên thông làm lý, đâu thể vướng mắc lưới ái này, khiến cho đạo của ta không thông được, Bảo Lượng ngộ ra lẽ đó vì thế mà làm khách du hoá. Năm hai mươi tuổi đến Kinh Sư ở Chùa Trung Hưng. Viên Xán vừa gặp thì rất mực kính trọng.

Sau này ông viết thư cho Ngài Đạo Minh và nói rằng: Con đã từng gặp Ngài Bảo Lượng. Vị ấy là bậc phi thường. Trước đây đến giờ nghe điều chưa từng nghe, bất giác tuổi đã xế chiều.

Như Châu sanh về Hợp phố, người nước Nguỵ lấy để chiếu xe. Ngọc bích ở Hàm Đan Tần Vương thỉnh về Hoa quốc. Bảo bối của thiên hạ thì hãy cho thiên hạ cùng hưởng.

Chẳng phải thứ mà bậc thượng nhơn ở Quý châu cần vậy. Từ đó tiếng tăm của Ngài càng vang rộng. Cho đến khi song thân Ngài mất, đường sá hiểm trở không về đất Bắc được. Vì thế Ngài chuyên tâm thiền định và dứt bặc chuyện đời. Tề Cánh Lăng Văn Tuyên Vương đích thân đến phòng Ngài thỉnh làm Pháp Sư. Ngài bất đắc dĩ phải đi.

Văn Tuyên quỳ lạy cung kính để kết nhân duyên bồđề với bốn chúng. Sau đó Ngài dời về ở Chùa Linh Vị. Thế rồi Ngài tiếp tục giảng pháp, Kinh Điển lưu truyền rộng rãi ở Kinh ấp. Ngài giảng bộ Niết Bàn tổng cộng tám mươi bốn lần.

Thành Thật luận mười bốn lần, Thắng Man bốn mươi hai lượt, Duy ma hai mươi biến, Đại Tiểu Phẩm mười lần, Pháp Hoa, Thập Địa, Ưu bà tắc giới, Vô Lượng Thọ, Thủ Lăng Nghiêm, Di Giáo, Di Lặc Hạ Sanh v.v… cũng gần mười lượt. Đệ tử tại gia, Xuất Gia hơn ba ngàn người. Môn đồ tham kiến vấn đạo đến mấy trăm. Bảo Lượng là một người tính tình phóng khoáng độ lượng.

Phong thái khí khái, anh tuấn. Và khi khai chương mệnh cú thì lời lẽ sắc bén, phóng khoáng. Hễ ai vấn luận hoặc nghi nan chất vấn, đồng tìm đến Ngài thì mọi thứ mổ xẻ tách bạch liền tỏ rõ tông chỉ, mối nghi ngờ tiêu tan, bao nhiêu điều nghi trệ đều quên hết. Cho nên hoàng thượng đương triều tôn sùng chánh đạo.

Và lúc nào cũng hoài vọng đức của Ngài, nhiều lần đến đàm đạo. Tánh Ngài rất cương trực, lần nào nói chuyện cũng xưng hai chữ bần đạo. Hoàng thượng tuy có ý nghĩ phóng khoáng nhưng lại rất khâm phục phong thái thần xuất của Ngài.

Năm Thiên Giám thứ tám bèn sắc phong Ngài soạn Niết Bàn Nghĩa Sớ hơn mười vạn lời, đích thân ông đề tựa: Không có ngôn ngữ thì không do đâu để gởi gấm lời nói. Nói ra thì hệ lụy đến vô ngôn. Lụy đến ngôn ngữ thì có thể dứt nói. Ngôn ngữ ngừng thì các kiến chấp tranh nhau khởi.

Cho nên Như Lai nương vào bổn nguyện mà thác sanh, hiện sức từ để ứng hóa, ly văn tự để lập giáo, quên tâm tướng để thông đạo. Muốn khiến cho ngọc quý, đá mân khác giá, sông Kinh, vị phân dòng. Lập ra lục sư mà dứt tứ đảo.

Trái ngược bát tà để quy về một vị. Bẻ sừng thế trí, bịt miệng dị nhơn. Hướng dẫn tâm tìm châu, mở mắt xem voi. Cứu sự thiêu đốt trong nhà lửa, vớt kẻ đắm chìm trong biển sáng. Cho nên mưa pháp tưới tẩm để giống khô được nảy mầm. Mặt trời trí tuệ xuất hiện để xóa tan đêm trường tăm tối.

Khởi lòng căm phẫn Ca diếp, thốt ra lời lẽ chân thật. Tuy hai món này thì bằng với trước. Năm đại trình bày ở sau. Ba mươi bốn câu luận bàn sai khác. Phương tiện khuyến dẫn tùy ý đáp đối. Toàn bộ yếu nghĩa Kinh Điển không ngoài hai đường, khơi nguồn sẵn có của Phật tánh mình.

Phát minh tông chỉ quy cực của Niết Bàn, chẳng nhân chẳng quả, không khởi niệm, không tạo tác. Nghĩa cao đến vạn thiện, sự tuyệt cả bách phi. Không không, không thể lường được bờ chân, huyền huyền không thể tận cùng diệu môn, trừ phi đức bình đẳng, tâm hợp với vô sanh, còn không thì tường vàng vách ngọc đâu dễ vào.

Có vị Sa Môn Thích Bảo Lượng ở Thanh châu phong thái điềm đạm phóng khoáng, tinh thần minh mẫn, lỗi lạc. Thiếu thời đã liêm khiết, tiết kiệm giản dị, lớn lên an bần trong pháp nhẫn, tuổi cao chí khí càng vững, tướng tá quắc thước, thung dung như tiên giác, rắn rỏi khoẻ mạnh. Cho đến tuổi xế bóng cũng an nhiên như vậy.

Ngày mồng 8 tháng 5 năm Thiên Giám thứ tám, vua sắc phong Ngài soạn Đại Bát Niết Bàn nghĩa sớ, đến ngày 20 tháng 9 thì hoàn thành. Làm sáng tỏ lời mầu nhiệm, tán dương chánh đạo, những gút mắc đã tháo gỡ, lưới nghi đã trừ, rõ ràng mạch lạc, chỉ nói sơ lược thôi.

Trẫm lúc rảnh rỗi sẽ xem xét bộ này. Nương vào mấy dòng sách để ghi riêng như vậy. Nhờ phước đức của Ngài mà chiêu cảm đến sự cúng dường của tín thí. Song tánh Ngài không thích tích trữ tiền bạc. Mà có được gì thì đem Kinh doanh phước nghiệp. Sau khi Ngài tịch trong phòng Ngài chẳng chứa vật gì.

Ngài tịch vào ngày mồng tháng 10 năm Thiên Giám thứ tám ở Chùa Linh Vị. Thọ sáu mươi sáu tuổi, an táng Ngài ở phía nam Chung Sơn, lập bia mộ.

Các nghĩa sĩ ở Trần quận như Chu Hưng Tự Quảng Lăng Cao Sảng cùng nhau viết văn, khắc vào hai mặt. Đệ tử Pháp Vân lại lập bia trong Chùa. Văn Tuyên họa tượng Ngài thờ ở Chùa Phổ Hoằng. Lúc ấy Chùa Cao Tòa có Ngài Tăng Thành. Chùa Khoáng Dã có Ngài Tăng Bảo đều là bậc thầy kiệt xuất của Tề triều. Tăng Bảo rất thạo Tam Huyền. Được Di Du tôn trọng.

Contact Information

Phone
Array
Address Array
This entry was posted in . Bookmark the permalink.