TS Chân Nguyên Tuệ Đăng

Personal Information

Danh Tánh
TS Chân Nguyên Tuệ Đăng - Ðời Thứ 33 Tông Lâm Tế - Ðời Thứ 3 Dòng Lâm Tế Đàng Ngoài
Gender ♂️ Male

Hành Trạng

Additional Info

Thiền sư Chân Nguyên Chánh Giác
(1647 - 1726)

Thiền sư Chân Nguyên Chánh Giác (1647-1726) thuộc truyền thừa của phái thiền Lâm Tế ở Đàng Ngoài, nhưng lại hoằng hóa ở các chùa thuộc truyền thừa của phái thiền Trúc Lâm thời xưa như Quỳnh Lâm, Long Động, Vân Yên... Vì vậy, Thiền sư Chân Nguyên đã tiếp thu những tinh hoa của hai phái thiền Trúc Lâm và Lâm Tế để giúp Phật giáo phát triển rực rỡ ở Đàng Ngoài.
Thiền sư Chân Nguyên là một trong những ngọn đuốc sáng của Thiền tông Đàng Ngoài vào nửa cuối thế kỷ 17, đầu thế kỷ 18, các đệ tử và pháp tôn của Thiền sư Chân Nguyên tiếp nối ngọn đèn pháp của phái thiền Trúc Lâm và Lâm Tế thắp sáng khắp Đàng Ngoài cho đến thời nhà Nguyễn, giúp cho Phật giáo phát triển mạnh ở Đàng Ngoài.
Ngoài ra, một trong các đệ tử của thiền sư Chân Nguyên là Như Trừng-Lân Giác (1696-1733) lại thành lập thành phái Liên Tông (sau đổi thành Liên Phái); từ đó các phái thiền Trúc Lâm, Lâm Tế, Tào Động và phái Liên Tông cùng hoằng hóa và kế truyền cho đến sau này.

---o0o---

Hòa Thượng Tuệ Đăng Hay Thiền Sư Chân Nguyên Chánh Giác (1647-1726)

Trước khi nghiên cứu về hành trạng của Thiền sư Chân Nguyên Chánh Giác hay Hòa thượng Tuệ Đăng, chúng ta đọc qua sơ lược tiểu sử của Ngài do hai cao đồ của Ngài viết:
1. Thiền sư Như Trừng - Lân Giác viết tiểu sử của Thiền sư Chân Nguyên trong bài văn bia khắc trên tháp “Tịch Quang” của Thiền sư Chân Nguyên ở chùa Lân Động (hay chùa Long Động) trên núi Yên Tử, khắc vào năm 1727, như sau:
“Đây là tháp Hòa thượng Tuệ Đăng hay Thiền sư Chân Nguyên Chánh Giác, người họ Nguyễn, tên là Nghiêm tự là Đình Lân, quê ở Thanh Hà, Tiên Liệt, mẹ họ Phạm. Một hôm, mẹ nằm chiêm bao thấy một cụ già cho một cái hoa sen, sực tỉnh dậy, từ đấy bà có mang và sinhNgười vào giờ Ngọ, ngày 16 tháng 9 năm Đinh Hợi (1647).
Lúc lớn, theo học với cậu là ông Giám sinh. Người rất thông minh, hạ bút thành văn, năm 19 tuổi, người được nghe đọc quyển Thực lục sự tích Trúc Lâm đệ tam Tổ Huyền Quang, tỉnh ngộ mà nói rằng: ”Đến như cổ nhân ngày xưa, dọc ngang lừng lẫy, mà còn chán sự công danh, huống chi mình là một anh học trò”. Bèn phát nguyện đi tu.
Người lên chùa Hoa Yên (là chỗ Tổ trên núi Yên Tử), vào yết kiến Thiền sư Tuệ Nguyệt. Sư Tuệ Nguyệt hỏi: “Ngươi ở đâu mà đến đây?”.
Người thưa lại rằng: “Vốn không đi lại”.
Sư Tuệ Nguyệt biết là sau người thành đạo, bèn thế phát cho người là Tuệ Đăng. Sau thầy tịch đi. Người muốn lập đàn thọ giới, Người đi tìm Thiền tông, sau đến núi Côn Cương, vào chùa Vĩnh Phúc, cúi đầu làm lễ sư Minh Lương (vị này sau cỡi hạc bay lên trời). Sư Minh Lương nhìn mà hỏi rằng: ”Nhà ngươi muốn học đạo gì?”. Người quỳ, nghiễm nhiên không nói không rằng, Sư Minh Lương đọc rằng: “Như như bất động thị vi Phật đạo”, bèn đặt pháp danh cho Người là Chân Nguyên, lúc bấy giờ Người thọ giới Tỳ kheo. Đến năm sau, người lập đàn Diệu Pháp Liên Hoa, thỉnh Tam tôn về cúng đàn làm chay phóng sinhthí thực; Người đốt hai ngón tay dâng cúng Tam tôn. Người thành Bồ tát giới, phát mười điều tâm nguyện, lúc ấy là người đã đắc đạo. Sau Người thường xem sách hoàng quyển, giữ lễ thanh quy.
Đến năm Giáp Tý (1684), Người làm đài Cửu phẩm Liên hoa ở chùa Quỳnh Lâm.
Năm Nhâm Thân (1692), Người 48 tuổi, vua Lê Hy Tông triệu vào nội cung ướm hỏi mầu nhiệm tu hành của Người. Ngự bút viết ba chữ “Vô thượng công” để khen, rồi ban cho y áo và pháp khí .
Năm 76 tuổi, vua lại triệu tập vào lập đàn chay Nghiêm Phúc, rồi phong chức “Tăng Thống Chánh Giác Hòa thượng”.
Năm Bảo Thái thứ 7 (1726), đời Lê, Người đã 80 tuổi, là năm Bính Ngọ ngày 28 tháng 10, giờ Dậu, người tọa hóa, đến hôm 30 dựng tháp hai nơi, một ngọn ở chùa Long Động và một ngọn ở chùa Quỳnh Lâm.
Năm Bảo Thái thứ tám (1727), pháp tử Sa di Như Trừng kính thuật bài văn này.
2. Thiền sư Như Sơn viết tiểu sử của Thiền sư Chân Nguyên trong sách “Ngự chế thiền điển thống yếu kế đăng lục” như sau:
“Đời thứ 74 (của Thiền tông, từ Ca Diếp trở xuống ) là Hòa thượng Chân Nguyên Chánh Giác chùa Lân Động, núi Yên Tử, người Tiền Liệt, Thanh Hà. Ban đầu sư đến xuất gia với Chân Trú, thọ giới không bao lâu thì Trú mất trước. Sau bèn cùng bạn đồng liêu là Như Niệm, đều nguyện tu hạnh Đầu đà, đi khắp nơi tham vấn. Chí riêng của Niệm là muốn ở chùa Cô Tiên. Sư bèn đến Phù Lãng, hỏi Hòa thượng Minh Lương:
- Bao năm dồn chứa ngọc trong túi, tận mặt hôm nay thấy rõ ràng, là thế nào?.
Tổ và sư bốn mắt nhìn nhau, sư lãnh ngộ bèn sụp lạy.
Tổ dạy:
- Dòng thiền Lâm Tế giao Ngươi kế thừa làm thịnh lên ở đời.
Sư đắc pháp rồi, biển học mây nhóm, hoa đàm nở đua. Sư dặn dò đệ tử:
- Hãy nghe bài kệ của ta đây:
“Hiển tịch phân minh thập nhị thời
Thử chi tự tánh nhậm thi vi
Lục căn vận dụng chơn thường kiến
Vạn pháp tung hoành chánh biến tri”.
Nói kệ xong, sư gọi đồ chúng bảo: “Ta đã 80, quyết chí về Tây phương”. Tháng 10, sư nhuốm bệnh, đến sáng ngày 28 thì viên tịch. Đại chúng hỏa thiêu, dựng tháp ở hai chùa Long Động và Quỳnh Lâm để thờ xá lợi”.
Từ hai tài liệu trên, qua công trình nghiên cứu, chúng ta tìm được hành trạng khá đầy đủ của Hòa thượng Tuệ Đăng.

I. Hành Trạng Của Thiền Sư Chân Nguyên Chánh Giác (Hay Hòa Thượng Tuệ Đăng)

Thiền sư Chân Nguyên Chánh Giác, tức Hòa thượng Tuệ Đăng, họ Nguyễn tên là Nghiêm (Nguyễn Văn Nghiêm) , hiệu là Đình Lân, quê ở xã Tiền Liệt, huyện Thanh Hà, trấn Hải Dương.
Mẹ của Thiền sư Chân Nguyên họ Phạm , một hôm nằm chiêm bao thấy: một cụ già cho một cành hoa sen, sực tỉnh dậy, từ đó Bà có mang và sau đó sinhra Ngài vào giờ ngọ, ngày 16 tháng 9 năm Đinh Hợi (1647).
Lớn lên, Nguyễn Văn Nghiêm theo học với cậu là một Giám sinh của Trường Quốc Tử Giám, Người rất thông minh, giỏi văn chương.
Năm 1665, lúc 19 tuổi, nhân đọc sự tích của Thiền sư Huyền Quang (Tổ thứ ba của Phái Thiền Trúc Lâm). Người thấy Thiền sư Huyền Quang từng là một Trạng nguyên, làm quan to trong triều đình, lừng lẫy ngang dọc mà còn chán công danh từ quan để đi tu, huống chi mình là một học trò quèn, thế là người phát nguyện xuất gia tu hành.
Người đến chùa Hoa Yên (Chùa Vân Yên) trên núi Yên Tử, yết kiến Thiền sư Chân Trú - Tuệ Nguyệt. Sư Chân Trú hỏi: Người ở đâu mà đến đây? Người thưa rằng: Vốn không đi lại. Thiền sư Chân Trú biết là sau này Người sẽ thành đạo , nên cho người thế phát quy Y và đặt pháp danh là Tuệ Đăng.
Sau đó, Thiền sư Chân Trú - Tuệ Nguyệt viên tịch sớm, Thiền sư Tuệ Đăng cùng với bạn đồng tu là Như Niệm, đi khắp các tùng lâm để tham học và thực hành hạnh Đầu Đà, đi vân du khắp nơi để tham vấn và khất thực khổ hạnh. Kế đó, Thiền sư Như Niệm trụ trì ở chùa Thiêm Tiên (Chùa Cô Tiên), Thiền sư Tuệ Đăng tiếp tục đi hành khước.
Thiền sư Tuệ Đăng đến chùa Vĩnh Phúc, trên nuí Côn Cương, làng Phù Lãng , cúi đầu đãnh lễ Hòa thượng Minh Lương - Nguyệt An. Hòa thượng Minh Lương nhìn thẳng vào hai mắt Thiền sư Tuệ Đăng và hỏi rằng:
- Nhà ngươi muốn học đạo gì?
Thiền sư Tuệ Đăng yên lặng, không trả lời. Hòa thượng Minh Lương nói rằng:
- Như như bất động thị vi Phật đạo.
Hòa thượng Minh Lương cho Tuệ Đăng thọ giới tỳ kheo và cho đổi pháp danh lại là Chân Nguyên.
Năm sau, Thiền sư Chân Nguyên lập một đài Diệu Pháp Liên Hoa ở chùa Vĩnh Phúc và thỉnh Tam Thế Phật ( A - Di - Đà, Thích - Ca, Di - Lạc ) và lập trai đàn thọ giới Bồ Tát. Trong lễ đàn này Thiền sư Chân Nguyên đốt hai ngón tay để cúng dường Tam Thế Phật và phát nguyện 10 điều để hành theo hạnh Bồ Tát.
Một hôm, sư Chân Nguyên hỏi Hòa thượng Minh Lương:
- Bao năm dồn chứa ngọc trong túi; tận mặt hôm nay thấy rõ ràng” là thế nào?
Hòa thượng và sư bốn mắt nhìn nhau, sư lãnh ngộ bèn sụp lạy, Hòa thượng phó chúc:
- Dòng thiền Lâm Tế giao cho ngươi kế thừa và làm hưng thịnh trên đời”, và đọc bài kệ phó pháp:
Mỹ ngọc tàng ngoan thạch
Liên hoa xuất ư nê
Tu tri sinh tử xứ
Ngộ thị tức bồ đề.
Tạm dịch:
Ngọc quý ẩn trong đá
Hoa sen mọc từ bùn
Nên biết chỗ sinh tử
Ngộ vốn thật Bồ đề.
Sau đó Thiền sư Chân Nguyên có nhân duyên được trụ trì chùa Long Động ở núi Yên Tử và chùa Quỳnh Lâm, là hai Tổ đình xưa của phái thiền Trúc Lâm. Nhân đó, sư tiếp thu tinh hoa trong kinh sách cổ của phái thiền Trúc Lâm. Vì vậy, sư là người kết hợp tinh hoa của hai phái thiền Trúc Lâm và Lâm Tế ở Đàng Ngoài để phổ truyền. Chính vì vậy, kể từ sư trở về sau, Phật giáo ở Đàng Ngoài có đặc trưng là kết hợp Trúc Lâm và Lâm Tế song hành, cũng tương tự như trường hợp của Tổ sư Minh Châu-Hương Hải trước đó (1628-1715) ở Đàng Trong và sau ra Đàng Ngoài.
Thiền sư Chân Nguyên còn in lại hay chú giải các kinh sách cổ của phái thiền Trúc Lâm thời xưa, ngoài ra sau khi tiếp thu tinh hoa của hai phái thiền Trúc Lâm là Lâm Tế đó, sư đã biên soạn thêm nhiều tác phẩm chữ Nôm và chữ Hán rất có giá trị. Vì vậy, từ sau Thiền sư Hương Hải và Thiền sư Chân Nguyên, Phật giáo Việt Nam kết hợp tinh hoa các phái thiền Trúc Lâm và Lâm Tế, cùng Tào Động ở Đàng Ngoài tạo nên một luồng sinh khí mới đặc trưng của Việt Nam, giúp cho Phật giáo Việt Nam phát triển mạnh cho tới thời Nguyễn và Phật giáo Việt Nam chỉ bị đình trệ và suy thoái sau khi Pháp chiếm Việt Nam, gây ra cuộc chiến tranh chống Pháp cho tới hiện nay.
Năm Giáp Tý (1684), Thiền sư Chân Nguyên dựng đài Cửu phẩm Liên hoa ở chùa Quỳnh Lâm theo kiểu xưa của Tam Tổ Trúc Lâm Huyền Quang đã lập ở chùa Ninh Phúc.
Năm Nhâm Thân (1692), vua Lê Hy Tông (1676-1705) triệu Thiền sư Chân Nguyên vào cung để tham vấn Phật pháp. Vua rất khâm phục tài đức của Thiền sư Chân Nguyên nên phong cho mỹ hiệu là “Vô Thượng công”, ban cho áo cà sa và các pháp khí để phụng sự Tam bảo.
Năm 1705, vua Lê Hy Tông lên làm Thái Thượng hoàng, nhường ngôi lại cho vua Lê Dụ Tông (1705-1729). Thái Thượng hoàng Lê Hy Tông được tôn là Chính Hòa Viên Thông Giác vương.
Năm Tân Mão, niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 7 (1711), Chính Hòa Viên Thông Giác vương ban cho Thiền sư Chân Nguyên ba tượng Phật (A Di Đà, Quan Thế Âm, Đại Thế Chí) và hai quyển sách thuộc giáo lý của Tịnh độ tông (còn được gọi là Liên tông) là “Long Thư Tịnh Độ Văn” và “Niệm Phật bảo cảnh”. Chính Hòa Viên Thông Giác vương lại đứng ra bảo trợ cho việc khắc bản và in hai quyển kinh này, Thiền sư Chân Nguyên viết bài tựa.
Năm 1722, vua Lê Dụ Tông thỉnh Thiền sư Chân Nguyên vào cung điện, lập đàn chay “Nghiêm Phúc”, vua phong cho Thiền sư Chân Nguyên chức Tăng thống và ban hiệu là Hòa thượng Chánh Giác.
Thiền sư Chân Nguyên hoằng hóa ở chùa Long Động trên núi Yên Tử, học chúng bốn phương về tham học rất đông, trong đó có cả vua chúa, các vương hầu, quan tướng của vua Lê và chúa Trịnh.
Ngày 28 tháng 10 năm Bính Ngọ (1726), Thiền sư Chân Nguyên triệu tập đệ tử dạy bài kệ:
“Hiển tịch phân minh thập nhị thời
Thử chi tụ tánh nhậm thi vi
Lục căn vận dụng chơn thường kiến
Vạn pháp tung hoành chánh biến tri.”
Dịch nghĩa:
Bày hiện rõ ràng suốt đêm ngày
Đây là tự tánh mặc làm chi
Sáu căn vận dụng chơn thường thấy
Muôn pháp tung hoành “giác ngộ” ngay.
Nói kệ xong, Thiền sư Chân Nguyên bảo đồ chúng: “Ta đã 80, sắp về cõi Phật”, rồi sư ngồi kiết già, an nhiên thị tịch.
Đại chúng làm lễ hỏa táng, vua Lê Dụ Tông truyền cho dựng tháp “Tịch Quang” thờ phụng xá lợi của Thiền sư Chân Nguyên ở hai chùa Long Động và Quỳnh Lâm.
Thiền sư Chân Nguyên hay Hòa thượng Tuệ Đăng có rất nhiều đệ tử xuất sắc như:
- Như Nhuận: kế thế trụ trì chùa Lân Động ở núi Yên Tử.
- Như Chúc: trụ trì chùa Bút Tháp.
- Như Trí hoằng hoá ở chùa Thiên Tâm trên núi Tiêu Sơn (Bắc Ninh)
- Như Trừng - Lân Giác khai sơn chùa Liên Hoa, sau đổi thành chùa Liên Tông hay chùa Liên Phái ở Thăng Long (Hà Nội).
- Như Hiện-Nguyệt Quang khai sơn chùa Nguyệt Quang ở Hải Phòng
- Như Sơn hoằng hoá ở chùa Hồng Phúc (chùa Hòe Nhai), kinh thành Thăng Long.
Chính các đệ tử và pháp tôn của Thiền sư Chân Nguyên đã nối tiếp ngọn đèn Thiền tông ở Đàng Ngoài, phát triển phái thiền Trúc Lâm và kế tục sự nghiệp phục hồi kinh sách Phật giáo do các thiền sư Việt Nam biên soạn, nhất là các Ngữ lục của các thiền sư phái thiền Trúc Lâm thời nhà Trần (1223-1400).
- Thiền sư Như Trí trùng san sách “Thiền uyển tập anh ngữ lục” (năm 1715).
- Thiền sư Như Sơn biên soạn sách “Kế đăng lục” năm 1736.
- Các Thiền sư Như Trừng và Như Hiện chuyển ra văn Nôm các sách về Luật tạng: Sa di thập giới.
- Như Nhuận khắc in sách “Long thư Tịnh độ và Niệm Phật”.
- Thiền sư Tánh Lương và Táng Quảng trùng san sách “Thánh đăng lục” (năm 1750)
- Thiền sư Tánh Tuyền-Liễu Giác khắc in sách “Tôn sư phát sách đăng đàn thọ giới”.
- Thiền sư Tuệ Hiền trùng khắc sách “Khoá hư lục”.
- Thiền sư Tuệ Nguyên trùng san sách “Thượng sĩ ngữ lục” (năm 1763).
- Sách “Tam Tổ thực lục” cũng được trùng san năm 1763, do các thiền sư trong tông phái này thực hiện.

---o0o---

II. Một Số Bài Thơ Của Thiền Sư Chân Nguyên

Thiền sư Chân Nguyên Chánh Giác có một số bài thơ và một số tác phẩm sau:

1. Ngộ đạo nhân duyên:
Nhất điểm tâm đăng Phật nhãn sinh
Tương truyền tứ mục cố phân minh
Liên phương tục diệm quang vô tận
Phổ phó thiền lâm thọ hữu tình
Tạm dịch:
Đèn tâm, mắt Phật mới vừa sinh
Tâm ấn truyền nhau bốn mắt nhìn
Tiếp nối đèn kia về bất tận,
Thiền lâm thắp mãi ánh quang minh.

2. Chân nguyên trạm tịch (hai bài):
I. Thiên địa phụ mẫu vị sinh tiền,
Tịch quang viên trạm thị chân nguyên
Tứ giác giác tha danh viết Phật
Từ bi thuyết pháp lợi nhân thiên
Tạm dịch:
Chân nguyên vốn trong sáng và lặng lẽ
Khi trời đất cha mẹ chưa sinh
Chân Nguyên yên lặng, sáng trong tròn
Tự giác, giác tha danh là Phật
Thuyết pháp từ bi lợi trời người.

II. Vạn pháp không hoa giai bất thực
Vị độ quần sinhgiả lập quyền
Liễu liễu bản lai vô nhất vật
Chân Nguyên trạm tịch phục hoàn nguyên.
Dịch nghĩa:
Mọi hiện tượng đều như hoa đốm giữa hư không, không có thật
Vì muốn độ quần sinh cho nên tạm đề cập đến chúng.
Giác ngộ được rằng: “Xưa nay không có một hiện tượng nào (một vật nào) đã từng hiện hữu; thì chân nguyên vắng lặng, trong trẻo lại trở về nguồn của nó”.
Tạm dịch thơ :
Mọi vật như hoa đốm hư không
Muốn độ quần sinh nên tạm mượn
Giác ngộ “xưa nay không một vật”
Chân Nguyên trong lặng, trở về nguồn.

3. Bài thơ tứ tuyệt
Hữu thuyết giai thành báng
Vô ngôn diệt bất dung,
Vị quân thông nhất tuyển
Nhật xuất lĩnh đông hồng
Tạm dịch:
Nói ra là bị kẹt
Không nói cũng không xong
Vì anh đưa một nét
Ánh hồng xuất lĩnh đông.

---o0o---

III. Tác Phẩm Của Thiền Sư Chân Nguyên

Thiền sư Chân Nguyên Chánh Giác viết rất nhiều sách chữ Nôm và chữ Hán, hiện biết được là có các tác phẩm sau:
1/ Thiền Tông Bản Hạnh hay An Tử Sơn Trần Triều Thiền Tông Chỉ Nam Truyền Tâm Quốc Ngữ Hành.
2/ Thiền Tịch Phú
3/ Nam Hải Quan Âm Bản Hạnh
4/ Đạt Na Thái Tử Hành
5/ Hồng Mông Hành
6/ Tịnh Độ Yếu Nghĩa
7/ Long Thư Tịnh Độ Văn Tự (Long Thư Tịnh Độ Văn)
8/ Long Thư Tịnh Độ Luận (Bạt Hậu Tự)
9/ Tôn Sư Phát Sách Đăng Đàn Thọ Giới.
10/ Nghênh Sư Duyệt Định Khoa (Thủy Lục Chư Khoa)
11/ Ngộ Đạo Nhân Duyên
12/ Kiến Tánh Thành Phật: bản in lại ( A2570) có chép về gốc tích và truyền thừa phái thiền Lâm Tế ở Việt Nam
13/ Ngoài ra, Thiền sư Chân Nguyên còn hiệu đính và khắc in lại sách “Thánh Đăng Lục” (năm 1705)
1. Thiền Tông Bản Hạnh (An Tử Sơn Trúc Lâm Trần Thiền Tông Bản Hạnh)
Sách Thiền tông bản hạnh, còn gọi là sách “An Tử Sơn Trúc Lâm Trần Triều Thiền Tông Bản Hạnh” hay còn gọi là “An Tử Sơn Trần Triều Thiền Tông Chỉ Nam Truyền Tâm Quốc Ngữ Hành” được Thiền sư Chân Nguyên sáng tác vào khoảng năm 1704-1705 (xem thêm sách “Chân Nguyên Thiền sư toàn tập”, tập I, của Lê Mạnh Thát - Tu Thu Vạn Hạnh in năm 1980).
Hiện tại, chúng ta biết được là sách “Thiền Tông Bản Hạnh” được in lại ba lần, có nội dung hơi khác nhau như sau:
Sách Thiền Tông Bản Hạnh In Năm 1745
Sách Thiền tông bản hạnh in vào năm 1745 được ông Hoàng Xuân Hãn phát hiện tại chùa Liên Phái (hay chùa Liên Hoa) và ông đã giới thiệu trên tạp chí Vạn Hạnh số 15 (năm 1966) từ trang 13 đến trang 20 - ông Hoàng Xuân Hãn viết:
“Khổ sách khá lớn, chiều rộng 15 phân 3 ly, chiều dọc 27 phân 7 ly sách gồm 38 tờ, mỗi trang có 8 hàng, mỗi hàng có 17 chữ. Chữ khắc rất rõ ràng vuông vắn, nét chân phương nắn nót và lối chữ Nôm
viết rất đủ nét và chính xác. Cũng như hầu hết các sách ta xưa mang tính cách tôn giáo, sách này đã được khắc và in cẩn thận với giấy tốt và mực đậm. Bản này hình như cũng ít bị giở đọc, cho nên nay còn trọn vẹn. Đó là quà của một vị tăng già trụ trì chùa Hoàng Mai gần Hà Nội đã cho tôi và nay may mà còn lại trong khi cả thư viện của chùa đã mất trong vụ Việt-Pháp giao tranh năm 1947.
Trong sách có bốn bài Nôm mà tôi kể sau, lại phụ một bài bằng Hán văn gần như Bài Bạt của người đem khắc.
Trang cuối cùng thuộc tờ 38 có đề rõ ràng: “Thời Lê triều, Cảnh Hưng lục niên, tuế thứ Ất Sửu, Đông tiết, cốc nhật. Kinh đô Thăng Long thành, Liên Hoa tự, Sa môn Liễu Viên phó chúc đệ tử Sa di ni hiệu Diệu Thuần trùng san”, nghĩa là:
“Bấy giờ là ngày tốt về mùa Đông năm Ất Sửu, niên hiệu Cảnh Hưng năm thứ sáu, triều Lê (cuối năm 1745 đầu năm 1746), Sa môn chùa Liên Hoa tại kinh đô, thành Thăng Long pháp danh là Liễu Viên phó chúc cho đệ tử là Sa di ni Diệu Thuận khắc in lại”.
Dòng cuối đề: “Bản lưu tại kinh đô, Liên Hoa tự dĩ hiểu hậu lai” nghĩa là: Bản lưu (ván khắc) để tại chùa Liên Hoa ở kinh đô (Thăng Long) để cho đời sau biết.
Chùa Liên Hoa ngày nay vẫn còn, nhưng vì húy Hoàng thái hậu đời Thiệu Trị, cho nên từ năm 1840 đã đổi tên ra chùa Liên Phái, chùa ở cạnh đường quan lộ đi Bạch Mai (Hà Nội).
Nội dung sách “Thiền Tông Bản Hạnh” in năm 1745 gồm có bốn bài văn Nôm và phụ thêm bài “Ngộ Đạo Nhân Duyên Đẳng Kệ”.
1.Yên Tử Sơn Trúc Lâm Trần Triều Thiền Tông Bản Hạnh (gọi tắt là Thiền Tông Bản Hạnh) gồm 746 câu thơ lục bát do Thiền sư Chân Nguyên sáng tác, kể lại gốc tích ý nghĩa Thiền tông và sự tích tu hành của vua Trần Thái Tông và Trần Nhân Tông.
2.Yên Tử Sơn Đệ Nhất Tổ Trúc Lâm Đầu Đà, Tĩnh Tuệ Giác Hoàng Điều Ngự Chư Phật Cư Trần Lạc Đạo Phú (Gọi Tắt Là Cư Trần Lạc Đạo Phú) gồm 160 câu, tán dương và giải ý về sự tu thiền.
3.Đắc Thú Lâm Tuyền Thành Đạo Ca, bài ca tứ tự, dài 84 vế, kể thú ẩn dật tu đạo. (Vua Trần Nhân Tông viết)
4.Yên Tử Sơn Trúc Lâm Đệ Tam Tổ Huyền Quang Tôn Giả Vịnh Hoa Yên Tự Phú (Vịnh Hoa Yên Tự), bài phú bát vận, dài 98 vế, tả cảnh chùa Hoa Yên.
5.Phụ hậu “Ngộ Đạo Nhân Duyên Đẳng Kệ” nghĩa là “Thêm vào sau sách bài kệ “Ngộ Đạo Nhân Duyên” (nhân duyên hiểu thấu đạo).
Bài kệ “Ngộ đạo nhân duyên”, Hoàng Xuân Hãn cho là của Thiền sư Liễu Viên sáng tác; nhưng theo ông Lê Mạnh Thát, bài kệ này của thiền sư Chân Nguyên sáng tác.
Sách Thiền Tông Bản Hạnh In Năm 1803
Chúng ta chỉ biết sách “Thiền tông bản hạnh” in năm 1803 là do Thiền sư Thanh Hanh cho biết trong bài tựa dẫn của sách “An Tử Sơn Trần triều Thiền tông chỉ nam truyền tâm quốc ngũ hành”, in năm 1932.
Sách Thiền Tông Bản Hạnh In Năm 1932
Nội dung sách Thiền tông bản hạnh in năm 1932 khác với sách đó in vào năm 1745, gồm có:
1.Yên Tử Sơn Trần Triều Thiền Tông Chỉ Nam Truyền Tâm Quốc Ngũ Hành (Hay Thiền Tông Bản Hạnh) do Thiền sư Chân Nguyên viết.
2.Cư Trần Lạc Đạo Phú do vua Trần Nhân Tông viết
3.Đắc Thú Lâm Tuyền Đắc Đạo Ca do vua Trần Nhân Tông viết.
4.Vịnh Hoa Yên Tự Phú do Thiền sư Huyền Quang viết.
5.Mạc Đỉnh Chi Trạng Nguyên Tử Nhập Minh Ty Thất Nhựt Kiền Chu Địa Ngục Tái Đắc Hoàn Sinh Giáo Tử Phú (Giáo tử phú của Mạc Đỉnh Chi).
6.Du Yên Tử Sơn Nhựt Trình Của Bạch Liên Tiến Sĩ
7.Thiếu Thất Phú Của Bạch Liên Tiến Sĩ
8.Thiền Tịch Phú Của Thiền Sư Chân Nguyên.
Như vậy, bản in năm 1932 không có bài “Ngộ Đạo Nhân Duyên” mà lại thêm 4 bài chữ Nôm, trong đó có bài Thiền tịch phú của Chân Nguyên, Giáo tử phú của Mạc Đỉnh Chi và hai bài của Tiến sĩ Bạch Liên.
Sách “Thiền Tông Bản Hạnh” in năm 1932 khổ 14 x 25, gồm 43 tờ. Mỗi tờ có 2 trang, mỗi trang có 10 hàng, mỗi hàng có 14 chữ (nếu là thơ lục bát) và 20 chữ (nếu là phú hoặc chữ Nho) chỉ có tờ đầu và tờ cuối là khác.
Bài tựa sách “Yên Tử Sơn Trần Triều Thiền Tông Chỉ Nam Truyền Tâm Quốc Ngữ Hành”:
“Từng nghe chân nhân An Kỳ Sinh đời Tiền Hán chọn ở núi này mà luyện chân thần, sau hóa thành tiên, vết thiêng rất nổi, kịp đến triều Trần, vua chúa, trạng nguyên, tể tướng, cùng cao tăng, danh sĩ, khi đã ngộ đạo chán đời, cũng họp nhau rảo đến núi đó, hoặc để tham học môn thiền trực chỉ, hoặc để hiểu rõ đường tử sinhngắn ngủi. Bởi vậy, vua chúa cho đến danh sĩ, ai cũng tức cảnh mà làm thơ, phú, ca, hoặc khúc ngắn, hoặc thiên dài; không ai không khen nó là thắng cảnh tuyệt trần thứ nhất của trời Nam. Buồn thay, nhà Trần sáng lập chùa chiền, tịnh xá mà vì vật đổi sao dời nên ngày nay chỉ còn tro bụi. Song xét khí số đất trời thì có phế tức có hưng.
Nay Thầy Thanh Minh chùa Hoa Yên vốn là môn nhân của Phù Lãng(2) ứng duyên đến đây, tùy sức xây dựng thì thấy ngày trước vào năm Gia Long thứ tư (1805), thầy trụ trì chùa Hoa Yên tự là Huệ Thân cùng với đệ tử khắc lại truyện này, nhưng đến nay hư mất, chẳng còn bản gỗ nào. Thiết nghĩ, sự ngộ đạo của vua tôi Nhà Trần thật hiếm có, đều chép rõ trong chuyện đó, nên ông để tâm sưu tầm, nay được văn bản, bèn phát nguyên khắc in để lưu thông hầu làm rộng sự truyền bá. Đây là lần khắc lại thứ ba. Sơ lược viết thay lời dẫn:
Vĩnh Nghiêm hậu học Tỳ kheo tự Thanh Hanh
Viết thẳng thay lời dẫn , ngày tốt thuộc trung tuần tháng 3 năm Hoàng triều Bảo Đại thứ bảy (1932)
Chú thích: (1) Trong bài Du Yên Tử sơn nhựt trình, tiến sĩ Bạch Liên có mở đầu bằng 2 câu thơ:
Mậu Dần vừa tiết thanh minh
Giày gai, gậy trúc đăng trình thảnh thơi.
Năm Mậu Dần ở đây là năm 1818, chứ không phải năm 1758 hay 1878 vì chúng ta được biết là tiến sĩ Bạch Liên có viết bài tựa Qui Nguyên - trong sách Qui nguyên trực chỉ được sư Huệ Minh chùa Từ Ân in lại sách của Nhất Nguyên Tông, bản đời Tống, Bài tựa này được viết vào mùa Đông năm Quý Mùi, niên hiệu Minh Mạng thứ 4, tức năm 1823. Trong bài tựa, Tiến sĩ Bạch Liên viết:”Ngu tôi một đời vụng về, gởi chân cửa thiền, kén ăn kén ở, phần nhiều vì tánh hiếu kỳ mà thành tật, ưa đi đó đây, phóng đãng giang hồ. Hè này, tôi đến chùa Từ Ân, núi Bồ Đà. Bấy giờ chủ chùa là Huệ Minh, nhân lúc rảnh rỗi, ngồi nói chuyện với nhau, bèn đem việc in lại Qui nguyên [trực chỉ] ra nói : Như vậy tiến sĩ Bạch Liên là thiền sư hành hạnh Đầu Đà, vì trong bài Thiếu Thất phú, Bạch Liên cho chúng ta biết rõ hơn về ông, ngôi chùa Bạch Liên ở được tả như sau:
Che nóc đã trời Nâng chân sẵn đất,
Chum ba gian nhà cỏ lưa thưa
Buông mấy cánh rèm bồng phơ phất...
Cuộc sống thanh đạm của Bạch Liên được ông tả như sau:
Chốn nghỉ ngơi giường tre chõng trúc,
Loang mang nhỉ, màn gác chăn giấy,
Áo tăng gìa phấn tảo nặng hơn cân.
Đồ nấu ăn nồi đất sinh gai,
Tủ tế sao, kho bí bung măng,
Bát đa la thiết bì đai mấy giắt
Trọn ngày một bữa cơm chay.
Trong ngoài giữ việc ông lão già nhom
Khuya tối chực hầu tiểu đồng bé nhắt
Cư xử lấy từ bi nẩy mực, học đòi cổ đức
Hạ chín tuần kết túc tụng kinh,
Hành tăng đem hỷ xã treo giường,
Bắt chước oai tăng, thu ba tháng đầu đà hành khất,

---o0o---

Thiền Tông Bản Hạnh
(Trần Triều Thiền Tông Chỉ Nam Truyền Tân Quốc Ngữ Hành)

Nội dung sách Thiền tông bản hạnh Sách Thiền tông bản hạnh gồm có 760 câu thơ lục bát, 4 bài kệ và 3 câu ngữ lục bằng chữ Nho, gồm có nội dung chánh như sau:
- Câu 1 đến 20: Thiền sư Chân Nguyên tự giới thiệu mình và nói sơ qua về hoàn cảnh xã hội thời đó (cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII).
- Câu 21 đến câu 104: tóm lược lịch sử Thiền tông từ Phật Tổ Thích Ca cho đến Lục Tổ Huệ Năng.
- Câu 105 đến câu 384: kể lại về hành trạng tu thiền của vua Trần Thái Tông.
- Câu 385 đến câu 400: kể lại về hành trạng của Trần Thánh Tông
- Câu 401 đến 662: kể lại về hành trạng của Nhất Tổ Trúc Lâm: vua Trần Nhân Tông.
- Câu 663 đến 666: giới thiệu qua về Nhị Tổ Pháp Loa, Tam Tổ Huyền Quang cùng với vua Trần Nhân Tông và vua Trần Minh Tông.
- Câu 667 đến câu 760: đại cương về tông chỉ của phái thiền Trúc Lâm.

Bản phiên âm “Thiền Tông Bản Hạnh”
(Tham chiếu Bản của Lê Mạnh Thát và Thích Thanh Từ)
1.Thời vừa đầu tiết xuân thiên,
Khí dương đầm ấm dân yên thái hòa
Bụt sinh Hoàng đế Lê gia
Thánh chúa vỗ trị gần xa lai hàng
Bốn phương khói tắt lửa lang
Phong điều vũ thuận dân khang thái bình
Được mùa hải yến hà thanh
Gia gia ngưỡng chúc Thánh minh cửu trường.
Dân nông thịnh vượng tầm tang
10.Thóc Hán gạo Đường đại nẩm phong niên
Thiền tăng Hòa thượng Chân Nguyên trụ trì
Long Động tự, Thiện Dược am
Vốn xưa cổ tích danh lam,
Trần Triều khai sáng đỉnh nham tu thiền.
Yên sơn cảnh tựa Tây Thiên
Phần hương chúc thánh vững bền đế đô
Việt Nam bốn bể cửu châu
Hưng sùng đạo Bụt, chợ quê khắp miền
Gió thông thổi lọt am hiên,
20.Tinh thần sảng nhớ Tông thiền chép ra
Trước kể tông phái thiền gia,
Ai ai học đạo xem hòa biết hay
Tây thiên Thích Ca là thầy
Truyền cho Ca Diếp, liền rầy A Nan.
25.Tính được Nhị thập bát viên
Hai mươi tám tổ Tây Thiên thuở này
Đạt Ma tổ mới phương Tây
Vượt sang Đông độ truyền ngay kệ rằng:
“Ngô bản lai tự độ
Truyền pháp cứu mê tình
Nhất hoa khai ngũ diệp
Kết quả tự nhiên thành”
Nguồn cơn tao đến chưng đây
30.Mở truyền giáo pháp làm thầy cứu mê
Một cây nở được năm chi
Khai hoa kết qủa đều thì chứng nên
Huệ Khả, Tăng Xán tục liền
Đạo Tín, Hoàng Nhẫn, lục thiền Huệ Năng
Chư tổ truyền dõi tâm đăng
Tây thiên Đông độ thiệu long khắp trời
Ngũ gia tông phái mọi nơi
Khêu đèn chong ngọn đợi người hữu duyên
Chư Phật trỏ bảo căn nguyên
40.Khẩu thụ tâm truyền Bát nhã chính tông
Tứ mục tương cố nhỡn đồng
Thầy tớ trao lòng, đăng chúc giao huy
Bổng đầu cữ nhỡn ấn tri
Cơ quan thấu được thục thì tri âm
45.Đến khi phó pháp truyền tâm
Vận dụng trí tuệ thiền thâm nhiều bề
Hoặc là nghiễm tọa vô vi
Hoặc là thuấn mục dương mi giao thần
Hoặc là sư tử dĩnh thân
50.Quát thét một tiếng xa gần vang uy
Ai khôn xem đấy sá nghì
Hội ngộ tự tánh tức thì chẳng nên
Thuở xưa hội cả Kỳ Viên
Bụt cầm một đóa hoa sen giơ bày
55.Ca Diếp trí tuệ cao thay
Liễu ngộ tự tánh bằng nay mỉm cười
Trần trần sát sát Như Lai
Chúng sinh mỗi người mỗi có hoa sen
Hoa là bản tánh tự nhiên
60.Bao hàm thiên địa phương viên cùng bằng
Hậu học đà biết hay chăng
Tâm hoa ứng miệng nói năng mọi lời
Thiêng linh ứng khắp mọi nơi
Lục căn vận dụng trong ngoài thần thông
65.Chân hoa sắc tức thị không
Không tức thị sắc thể đồng như như
Tam thế chư Phật Tổ sư
Tứ mục tương cố thị cừ Thiền cơ
Ai chưa tín thụ còn ngờ
70.Thỉnh kinh Lăng Gìa quyển nhị hòa trông
Tự nhiên đốn ngộ tâm tông
Kẻo tìm kinh giáo luống công lâu ngày
Giáo là kinh lục thỉnh bày
Giấy mực văn tự chất đầy hà sa
Tông là nguyên tánh của ta
Vốn vô nhất vật, sáng hòa hư linh
Thuở xưa trời đất chưa sinh.
Cha mẹ chưa có thực mình chân không
Chẳng có tướng mạo hình dung
80.Tịch quang phổ chiếu niên đồng thái hư
Thánh phàm vô khiếm vô dư
Bất sinh bất diệt như như
Di Đà Liễu tri vạn pháp không hoa
Văn tự ngôn ngữ ấy là vọng duyên
Chân như tính vốn thiên nhiên
Vô tạo vô tác căn nguyên của nhà
Xem kinh Bụt thuyết còn xa
Nghiệm cơ Tổ báo sát na biết rồi
Ngộ tánh không tịch thời thôi
90.Chẳng lạ chi lời vấn đáp tiêu hao
Cơ quan thuận nghịch thấp cao
Những sự huyễn trí chiếm bao đặt làm
Đại vì thuyết pháp chỉ nam
Cho ta ngộ đạo say đàm kinh lâu
Cho hay Phật pháp lẽ mầu
Bất khai văn tự, bất cầu đa ngôn
Khuyên người học đạo trí khôn
Giác tri tự tánh chớ còn tìm đâu
Phật tổ phó chúc trước sau
100. Pháp ấn như thị làu làu chân không
Cùng truyền bát nhã tâm tông
Ngộ vô sở đắc thật dòng chân tăng
Thiệu Phật kể Tổ truyền đăng
Tương thừa y bát Huệ Năng vô cùng
105. Ấy sự chư Tổ truyền lòng
Những toan lại nói, Nam cung những là
Chư Tổ truyền đến nước ta
Thiền Tông Nam chỉ chép ra lời này
Trước kể Trần triều cho hay
110. Đế vương học đạo là ngài Thái Tông
Trị vì thiên hạ tây đông
Vạn dân phú qúi, no lòng âu ca.
Thái Tông trị vì quốc gia
Lòng muốn tu đạo để hoà độ thân
Bề trên báo được tứ ân
Bề dưới thời khỏi trầm luân tam đồ
Thân tuy còn ở thành đô
Lòng đã tưởng chùa non vắng am mây
Lòng vua những lự đêm ngày
120.Hai mươi sáu tuổi hầu hay chước nào
Sinh lão bệnh tử thương sao
Tuổi già lập cập nan đào tử sinh
Tháng ngày bằng chớp loáng minh
Thân người ảo hóa nhiều hành khá thương
Thế tình tham những giàu sang
Đắm say nào biết suối vàng phong đô
Tam Hoàng Ngũ đế đời xưa
Lựa lần thay đổi biết qua mấy đời
Cũng nhờ oai phước ơn trời
130. Thịnh suy, bĩ, thái, vãng lai ta bà
Chí thân mạc đại chi gia.
Tình thâm phụ mẫu cũng là đệ huynh
Phu thê nghĩa cả chí tình
Đến khi hết số một mình Diêm la
Chẳng ai thay được đâu là
Ruộng nương lại để người ta ăn rồi
Cũng như bọt nổi dòng xuôi
Đèn soi mặt nước ai ai cũng vầy
Thân người aỏ hóa bao chầy
140. Như bằng chớp mắt nằm ngày chiêm bao
Tử sinhchẳng biết khi nao
Phất phơ đèn gió, người nào biết hay
Ai khôn ngộ tánh chớ chầy
Lo liệu thân này độ lấy thân sau
Chớ còn bịn rịn hòa lâu
Quyết học đạo mầu phát túc siêu phương
Thuở ấy Thiên Ứng Đại Tường
Chính Bình ngũ tải thụy quang đươm nhuần
Tứ nguyệt vừa năm Bính Thân
150.Mồng một tháng bốn rồi xuân sang hè
Hợi mạt hầu bán Tý thì
Vua phán tả hữu một khi lời này
“Lòng Trẫm thương thiên hạ thay,
Phú quý bần bạc chẳng hay dường nào
Thị tùng bây đi cùng tao
Thăm xem dân thế dường nào cho hay
Thiên hạ đói rách thương thay
Thấy no phú qúi, Trẫm nay mừng lòng”
Bảy người tả hữu đi cùng
160. Sang đò Đông khứ tắt mong tìm ngàn
Ngày sau đến đò Bàn Than
Lệ người hay mặt “Quan gia” thuở này
Tay áo che mặt bằng nay
Sang đò cho khỏi vắng rày lại đi
Non cao rừng quạnh sơn khê,
Đường đi hiểm trở nhiều bề thiết thay
“Lòng thực trẫm bảo chúng bay
Trẫm đi tu đạo, chúng bây trở về”.
Bảy người lăn khóc ngã kề
170.Vua để thiên hạ sầu bi, đoạn trường
Ngày ấy tối phải giữa đường
Vào nằm tăng Giác chùa làng một đêm
Hỏi thăm đường lên Hoa Yên
Dốc lòng tìm Bụt, chẳng phiền đường xa.
Non cao rừng quạnh dã hoa
Sơn trùng vạn điệp quốc gia đỗ ngồi
Ngựa nhọc đi chẳng tới nơi
Lòng lo bắt lại hầu ngồi lại đi
Vào đến Long Động một khi
180. Coi thấy khí tượng lòng thì đã vui
Tuyền khê suối mát tắm ngơi
Hiệu là Cốc Đỗ nước trôi đùng đùng
Trông thấy cửa Ngăn lạ song,
Hai núi giao lại ngăn lòng thế gian
Đồ như thạch bích tam quan
Dầu ai đến đấy giải oan mới vào
Trong cửa Thạch tượng lạ bao
Có voi là đá uy hào linh thiêng
Chống ngự ngoại đạo tai ương
190. Hộ người có đức đòi phương được lành
Lại đi một dặm ngàn xanh
Đến Tiết Dương suối nước thanh làu làu
Trăm đường phiền não chẳng âu,
Tắm qua nước ấy đã hầu khinh thân.
Leo lên Đỗ Kiệu hầu gần
Mùi hương phức phức phàm trần đã không
Rườm rà hàng trúc, hàng thông
Thế gian đến đấy thời lòng đã thanh
Suối đàn tiếng nhạc inh inh.
200. Chim kêu vượn hót đã thanh lòng thiền
Bước lên đến chùa Hoa Yên
Bốn bề cảnh giới động tiên khác thường
Trăm hoa đua nở mùi hương
Lòng vua đến đấy một dường vui thay
Trúc Lâm Viên Chứng là thầy
Ra mừng Hoàng đế nói bày thiền gia
“Thiền tăng khổ hạnh chiền gìa
Cơm ăn dưa muối dầu là đói no
Mình gầy cật vận áo hồ
210.Lòng bằng mây nước chẳng lo điều gì
Vua làm Hoàng đế trị vì,
Điện rồng gác phượng xem thì nhiều thay
Cung phi mỹ nữ chầu bầy
Trà thang ngọc thực đêm ngày xướng ca
Ngai vàng ngồi ngự trên hoa
Man di lào lễ gần xa phục rày
Sơn lâm đường hiểm dường này
Vua tìm vào đến chẳng hay sự gì ?
Nay vua giận ai mà đi
220. Ắt là có sự vậy thì chẳng không ?
Vua thấy thầy nới mở lòng
Hai hàng nước mắt dòng dòng nhỏ sa
Trẫm lam Hoàng đế quốc gia
Kim ngân châu báu đề đa thiếu gì
Lòng trẫm thấy của màng chi
Thân người ảo hóa được thì bao lâu
Lại lo phụ mẫu trước sau
Ân thâm đức hậu lấy gì báo ân
Nay trẫm tìm vào sơn lâm,
230.Tua cầu làm Phật chẳng toan sự nào
Thầy thấy vua thuyết cảm sao
Thiền tông chỉ bảo thấp cao sự lòng
“Sơn bản vô Phật làm song
Phật ở trong lòng Bụt tại mỗ tâm
Hiện ra nhản nhĩ thanh âm
Tứ mục tương cố chẳng tâm thời gì
Tâm nguyên không tịch vô vi
Ngộ được tức thì quả chứng Như Lai
Tánh ta há phải cầu ai
240. Gia trung tàng bảo muôn đời sáng soi
Thời vừa thiên hạ tìm đòi
Trần công Thái Tể thương ôi những là
Lệnh rao khắp hết gần xa
Tìm đòi dấu ngựa khắp hòa đông tây
Sang khó già trẻ thuở này
Cùng tìm Hoàng đế đêm ngày tân toan.
Tìm lên đến Yên Tử sơn
Thấy vua tụng niệm thiên ban lòng sầu
Lão thần quì lạy trước sau
250. “Vua đi tu đạo tôi thì làm sao”
Triều đình tả hữu cùng vào
Trần ngôn thống thiết thấp cao mọi lòng
“Chúng tôi phò rập quốc trung
Thiện hạ phú quí, Tây đông an nhàn
Bằng nay vua để nhà quan
Hòa đi tu đạo dân gian cực sầu
Nguyện vua nạp ngôn tôi tâu
Sá về trị nước, sau già sẽ hay
Lòng vua chẳng toan về rày
260. Thiên hạ cùng thác ở đây chẳng về
Vua thấy thiên hạ sầu bi
Lòng lo thảm thiết một khi trình thầy
“Thiên hạ rước trẫm về rày
Lòng muốn tu đạo nguyện thầy dạy sao”
Dòng dòng nước mắt nhuốm sa
Một là tiếc đạo, hai là thương dân
Thuở ấy thiền sư Trúc Lâm
Thấy vua thuyết vậy bội phần khá thương
Trí khôn tâu động Thánh hoàng
270. Được lòng thiên hạ mới lường răng bây:
“Hễ là bậc vua nhân đức lấy tâm thiên hạ, làm tâm mình, lấy cái muốn của thiên hạ làm cái muốn của mình. Nay thiên hạ muốn đón, xin Bệ Hạ trở về. Song nghiên cứu kinh điển, không quên sửa lòng rèn tánh”.
Này đoạn thầy phó chúc vua
“Dầu về trị nước Đế đô kinh thành
Ngày thời xem việc triều đình
Đêm thời hằng nhớ tụng kinh tọa thiền
Phật pháp là đại nhân duyên
Con cả nối nghiệp, thay quyền lại đi”
Triều đình kính chúc tung hô
Kiệu dù tán tán, rước vua ngự về
Thiên hạ mừng thay bốn bề
280.Vua lại xem nước trị thì điện an
Trị vì được mười ba xuân
Chốc mong đạo Bụt lại toan sự lòng
Nhớ lời thầy dạy chẳng vong
Mời chư thiền đức lão tăng vào chầu
Hỏi thăm kinh giáo trước sau
Kim Cương thường tụng lễ mầu tinh thông
Liễu đạt, tám chữ làm xong
“Ưng vô sở trụ nhi sinhkỳ tâm”
Vua ngồi tức lự trầm ngâm
290.Hoát nhiên đại ngộ mới thâm vào lòng
Ngỏ được Bát nhã tâm tông
Vạn pháp diệu dụng tự tánh hiển dương
Bản lai thanh tĩnh chân thường
Viên minh phổ chiếu đường đường tịch quang
Khi thời ngồi ngự ngai vàng
Khi thì tọa tịnh thiền sàng bóng cây
Lòng thiền nghiêm cẩn ai hay
Quả bồ đề chín đến ngày thu công
Thiên hạ nam bắc tây đông
300. Thấy vua đắc đạo trong lòng vui thay
Sang khó già trẻ thuở này
Cùng đi học đạo số rầy đề đa
Đắc đạo bằng cát sông Hà
Nhớ ơn Hoàng đế quốc gia phát lòng
Dầu ai tính dữ bạo hung
Lại hồi chính thiện ra lòng đi tu
Vạn dân kích nhưỡng khương cù
Nhà nhà thờ Bụt, Nam mô Di Đà
Này đoạn Lão tăng Thầy gìa
310. Ở Yên Tử già tìm xuống thành đô
Vua mừng phong tặng quốc sư
Trọng tăng kính Phật phụng thờ nghiêm trang.
Phán ở Thắng Đức điện đường
Sửa kinh soạn lục để truyền hậu lai
Thiên Phong là thầy nước ngoài
Trí tuệ cao tài kinh lịch chư bang
Tiếng đồn Việt quốc đế vương
Có vua tu đạo người thường tinh thông
Xưng rằng Lâm Tế tông xưa
320.Pháp phái diễn thừa vân thủy An Nam
Hội thiện trí thức lại tham
Ích minh tông chỉ càng thâm lòng thiền
Sư trưởng là đại nhân duyên
Thiện hữu trợ giáo hộ quyền
Nam mô Thái Tông mở Phật trường đồ
Quỳnh Lâm, Tư Phúc, cùng chùa Hoa Yên
Trai tăng ngũ bách dư viên
Thể phát thụ giáo thiên nhiên vàn vàn
Thành thị cho đến lâm san
330.Tùy căn tu chứng thanh nhàn an cư
Thuở ấy ngoại quốc tôn sư
Lại nghe Nam Việt có vua tu hành
Tên người là Tống Đức Thành
Trèo non lặn suối một mình tìm sang
Vào triều bái tạ thiên nhan
Thiền gia làm lễ dám than lời rằng:
Đức Thành hỏi: Xưa Đức Thích Ca Thế Tôn lúc chưa rời trời Đâu Suất thì đã giáng sinh ở cung vua Tịnh Phan ; lúc chưa ra khỏi bào thai mẹ thì đã độ hết mọi người, điều ấy là thế nào :
Thái Tông Hoàng đế đáp:
“Ngàn sông có nước ngàn sông nguyệt
Muôn dặm không mây muôn dặm trời
Đức Thành lại hỏi:
Chưa rời (trời Đâu Suất), chưa ra khỏi (bào thai) đã được chỉ bày rồi, còn đã ra thì việc thế nào?
Thái Tông đáp:
“Mây sinh Đỉnh Nhạc mây trắng xóa
Nước đến Tiêu Tương nước xanh rờn
337. Mây lên núi bạc bằng lau
Nước xuống nguồn Tào vằng vặc sáng thanh
Pháp thân trạm tịch viên minh
340.Tự tại tung hoành phổ mãn thái hư
Tùy hình ứng vật tự như
Hóa thiên bách ức độ cho mọi loài
Ứng hiện dưới đất trên trời
Khắp hòa thế giới, mọi nơi trong ngoài
Đã đặt hiệu là Như Lai
Sao còn hỏi xuất mẫu thai làm gì ?
Nguyệt luân biến hóa quang huy
Thiên giang hữu thủy cũng thì bóng in
Đức Thành lại hỏi căn nguyên
350.Đế vượng ngộ đạo nhân duyên như hà ?
Này lời Thái Tông thưa ra,
“Lưỡng mộc đồng hỏa” đôi ta khác gì
Đương cơ đối đáp thị thùy
Thục tánh ứng dụng cùng thì nhất ban
Phóng ra bọc hết càn khôn,
Thu lại nhập nhất mao đoan như la
Ma ha Bát nhã ba la
Tam thế chư Phật chúng đà nên công
Bách giang vạn thủy triều đông
360. Ngộ đạo giáo lý thực cùng tề nhau
Phật tiền Phật hậu trước sau
Bát nhã huyền chỉ đạo mầu truyền cho
Ai ai đạt giả đồng đồ ?
Mỗi người mỗi có minh châu trong nhà
Mùa xuân vạn thụ khai hoa,
Cành cao cành thấp vậy hòa chúng nên
Vi nhất đại sự nhân duyên
Xuất hiện vu thế Tam thiên Ta bà
Ngai rồng trút để bước ra
370.Thế phát ở già niệm Bụt tụng kinh
Khác nào dược xuất kim bình
Vua đi tu hành cứu được vạn dân
Bản lai thanh tịnh pháp thân
Viên dung pháp giới đâu gần đâu xa
Có chữ đầu Phật xuất gia
Vì vậy trẫm phải bước chân ra ngoài
Đức Thành tôn phục mọi lời
Thật quyền Hoàng Giác ra đời độ nhân
Đức Thành vái tạ thánh quân
380.Thượng hoàng Phật đạo, hạ cần vương gia
Đức Thành lễ bái lui ra
Tống quốc khiêm nhượng nước ta thánh hiền
Tuổi vua sáu mươi dư niên
Nhượng vị cho con là Trần Thánh Tông
Mậu Ngọ cải hiệu Thiệu Long
Trị vì thiên hạ tây đông an nhàn
Trần triều dòng đức vua quan
Những Tiên cùng Bụt thế gian khôn bì
Cửu trùng củng thủ thùy y
390.Hưng sùng đạo Bụt sớm khuya ân cần
Trị vì nhị thập nhị xuân
Lại toan học đạo tu thân phát lòng
Cho con là Trần Nhân Tông
Thay quyền kế trị nối dòng
Đế vương sửa sang quốc chính kỷ cương
Cho cha du thủy du sơn tu hành
Ở chùa Tư Phúc An Sinh
Trì trai thế phát tụng kinh đêm ngày
Đại Đăng quốc sư là Thầy
400. Thánh Tông đắc đạo mừng thay thốt rằng:
“Tiền đăng lại điểm hậu đăng
Mộng bồ đề nở những lòng ông cha
Này đoạn Nhân Tông kể ra
Thánh mẫu là mẹ lòng hòa có nhân
Giấc hòe thoắt nhắp đêm xuân
Chiêm bao xẩy thấy thân nhân một người
Cao cả tướng sứ nhà trời
Trao cho lưỡng kiếm có lời bảo vây
Hoàng hậu sực thức đêm chầy
410.Thấy điềm sự lạ tâu bày Thánh Tông
Lòng vua thấy vậy cực mừng
Bàn mộng thuyết rằng “ấy trời độ ta”
Tự ngày chiêm bao đã qua
Hoàng hậu thụ thai cùng hòa tốt tươi.
Mãn nguyệt no tháng thoát thai
Mình vàng kim sắc tướng lạ dạng thay.
Vua chia thốt bảo rằng bay
Hai ta có đức, sinh nay Bụt vàng
Hữu kiên nốt ruồi bên nương
420.Thuật sĩ xem tướng đoán lường rằng bây
Thái tử trí cả bằng nay
Gánh việc đại khí làm Thầy mười phương
Cha mẹ dưỡng dục yêu đương
Đặt hiệu cho chàng là Điều Ngự Vương
Tuổi vừa mười sáu niên phương
Vua cha định liệu cho thăng trị vì
Điều Ngự hai phen tâu quì
Khiến nhường cho em trị vì thay anh
Thái tử lòng muốn tu hành
430.Nhìn xem phú qúi tâm tình dưng dưng
Tuy ở điện bệ Đông cung
Lòng hằng vẫn nhớ Tông phong nhà thiền
Đêm khuya bóng nguyệt kề hiên
Chiêm bao xẩy thấy hoa sen mọc bày
Có người chỉ bảo rằng bây :
Gẫm thấy phen này Thái tử có duyên
Ấy là Phật báu hoa sen
Thái tử từ ấy những nguyền ăn chay
Mặt mũi hình vóc đã gầy
440.Vua cha xem thấy ngày rày hỏi con:
Thái tử quì lạy tâu van
Thánh Tông nước mắt hòa chan dòng dòng
“Ai hầu nối nghiệp tổ tông
Tuổi cha già cả trong lòng khá thương
Thái tử nước mắt đượm nương
Phụ tử tình thâm cảm thương thay là
Học đạo báo ân mẹ cha
Đêm ấy thái tử thoát ra du hành
Tìm lên Yên Tử một mình
450.Đến non Đông Cứu thiên minh sáng ngày
Giả tướng lệ người thể hay
Vào nằm trong tháp một giây đỗ dừng
Tăng tự thấy tướng lạ lùng
Làm bữa cơm thết cúng dường cho ăn
Hoàng hậu liền tâu Minh quân
Ra bảo thiên hạ quần thần đông tây
Tìm đòi thải tử chớ chầy
Bắt em thay trị liền tay tức thì
Thuở ấy thái tử lại về
460.Vua cha nhường vì cho trị vạn dân
Nhị nguyệt vừa năm Mậu Dần
Cải hiệu Thiệu Bảo, Nhân Tông trị vì
Niệm Bụt Di Đà chẳng khuy
Ngày thì xem trị đêm thì tụng kinh
Hương hoa đèn lửa một mình
Chiêu tập thiền khách vào thành mà tham
Tuệ Trung thượng sĩ chỉ nam
Nhân Tông tác lễ mới tham đạo thầy
Tuệ Trung trỏ bảo liền tay
470.Tức tâm thị Phật xưa nay Bụt truyền
Tâm là bản thể căn nguyên
Tâm là nhất tụ pháp môn thượng thừa
Tâm bao bọc hết thái hư
Tâm năng ứng dụng tùy cơ trong ngoài
Tạm hiện con mắt, lỗ tai
Hay ăn hay nói mọi tài khôn ngoan
Tâm năng biến hóa chư ban
Vạn pháp cụ túc lai hoàn như như
Nhân Tông hoàng đế Điều Ngự
480.Nghe Tuệ Trung thuyết ngộ đà viên thông
Thuở ấy con là Anh Tông
Nhượng cho tức vị Hưng Long hiệu này
Kỷ Hợi Nhân Tông ra ngoài
Quyết lên Yên Tử tu chùa Hoa Yên
Quần thần nghĩa sĩ dưới trên
Đưa vua tu đạo thoát duyên phàm trần
Đến chùa Long Động mới phân
Dứt từ phiền não ái ân phát nguyền
Nhân Tông khăn khắn lòng tin
490.Thành tâm trai giới bước lên chiền già
Cung tần thế nữ trở ra
Người về phối thất kẻ ra kinh kỳ
Mặc ai rả chợ về quê
Canh nông buôn bán làm chi mặc lòng
Thế gian vạn sự của chung
Sinh không tử lại hoàn không những là
Rày Trẫm đầu Phật xuất gia
Trăm đường rũ hết lòng hòa tiếc chi
Chị hầu bà mụ cung phi
500. Mộ đạo chẳng về cảm đức ở đây
Lòng vua thấy vậy thương thay
Phán rằng cho ở một nơi lâm tuyền
Cho nên tích để lưu truyền Làng Nương
Làng Mụ phúc duyên đã chầy
Vua ngự Yên Tử bằng nay
Tụng kinh thiền định đêm ngày cần tu
Thiên hạ phủ huyện lộ châu
Hưng sùng đạo Phật thành đô trong ngoài
Thiên hạ học đạo mọi nơi
510.Trai tăng kiến Phật nối đời Thiền Tông
Thời vừa Giáp Thìn niên trung
Đầu Đà hành hóa thăm lòng thế gian
Du phương sơn thủy mọi ngàn
Người tôn kẻ báng thế gian sự thường
Dân phàm chẳng biết đế vương
Thế đầu học đạo chẳng phương thân mình
Dầu ai dẽ dói kiêu hành
Chứng được pháp nhãn tâm tình vui thay
Giảng pháp nam bắc đông tây
520.Anh Tông có biểu thỉnh nay vào thành
No mặt trăm quan triều đình
Cùng thụ giáo pháp tu hành làm nơi
Tại gia tiệm giới tiệm trai
Tác phúc niệm Phật thương loài chúng sinh
Khoan nhân mẫn tuất dân tình
Phúc truyền con cháu hiển vinh muôn đời
Ngày rằm mồng một chớ nguôi
Tiến dâng lục cúng, Bụt thời chứng minh
Tây phương cũng được thượng trình
530.Di Đà tiếp dẫn hóa sinh liên đài
Hoặc người giải thoát trần ai
Chẳng tham phú qúi tiền tài lợi danh
Xuất gia đầu Phật tu hành
Quả chứng công thành cứu được tổ tiên
Lại thuyết sự tổ nhân duyên
Đầu Đà vãng giáo kinh quyền bốn phương
Thời vừa khai tuyển Phật đường
Linh sơn cảnh giới thiền đường mọi nơi
Đến chùa Sùng Nghiêm đỗ ngồi
540.Mở hội thuyết pháp có lời cho tham:
Vậy có kệ rằng:
“Thân như hơi thở luồn trong mũi
Đời giống mây trôi đỉnh núi xa
Chim quyên kêu rã bao ngày tháng
Đâu phải mùa xuân dễ luống qua”
541. Ai ai đã để cửa nhà
Tìm đi học đạo xuất gia tu hành
Chớ còn tham lợi tham danh
Chấp cảnh chấp giới tranh giành làm chi
Vô thường sinh, tử bất kỳ
Đạo đức chẳng có ở thì sao an
Đạo trường thỉnh vấn hỏi han
Điều Ngự giảng hết thiền quan mọi lòng
Thị tăng lại hỏi cánh chung
550. Điều Ngự phó chúc Tâm tông cho rày:
“Bát tự đã khai bằng nay
Tứ mục tương cố lộ bày viên dung
Ấy là mật ấn Tâm tông
Tổ đã truyền lòng chớ có hồ nghi
Bát thức không tịch vô vi
Chuyển thành tứ trí gọi thì đã khai
Tam thể chư Phật Như Lai
Tứ mục tương cố muôn đời chứng chân
Tự ý đắc đạo lần lần
560.Ai ai lĩnh chỉ tu thân độ người”
Bảo Sát gián tổ mọi lời
Tôn đức niên lão mựa dời đường xa
Nhân Tông mỉm cười thốt ra,
Tứ đại thủy hỏa dầu là no tan
Giá cả bản lai bất can
Có đâu sinh diệt hòa toan nhọc mình
Lòng tao quảng độ chúng sinh
Đầu đà khổ hạnh giáo thanh truyền đời:
Xuân Thu giảng giáo mọi nơi.
570.Hạ Đông yên tọa lại ngồi non xanh
Thập nguyệt ngũ nhựt bình minh
Thiên Thụy Công chúa trong mình phải đau
Gia đồng Triệu Bản lên tâu.
Đến Tử Tiêu Am khấu đầu lạy vua
“Công chúa bệnh đốc chẳng qua”
Nhân Tông thẩy thốt nói ra lời này:
“Nhân duyên thời tiết vậy vay,
Có sinh có tử xưa nay hằng lề”.
Nhân Tông chống gậy ra đi.
580. Hành giả hộ trì một người chân tay
Ba ngày đến kinh đô rày.
Lập đàn phó chúc một ngày tái qui
Đến chùa Cổ Châu một khi
584.Cất bút bài đề một kệ rằng bây:
“Số đời hơi thở lặng
Tình đời đôi biển ngân
Cung ma chật hẹp lắm.
Nước Phật khôn xiết xuân”
585. Ngày sau đến chùa Sùng Nghiêm
Tuyên Từ Thái hạu thiết bữa thời chay
Về đến Hương Lâm thuở nay
Nhức đầu khí liệt, chân tay ngại kề
Tình cờ hai thầy đi qua
590.Tử Doanh, Hoàn Trung tức thì mừng thay
Nhân Tông thốt bảo rằng hay:
Lòng tao thuở này muốn tới Ngọa Vân
Hai thầy chắp tay đến gần
Chúng tôi cảm lòng hộ niệm đường xa
Tu du xẩy lên đến già,
Nhân Tông thuyết bảo mựa qua lời này:
“Chúng bay học đạo chớ chầy,
Vô thường hai chữ kíp thay nan đào.
Gọi lấy Bảo Sát cho tao,
600.Có lời đặc nhủ tiêu hao mọi lòng.
Hành giả tên là Pháp Không,
Đến Vân Tiêu tự trong lòng vui thay
Mới trình Bảo Sát cho hay,
Tôn đức thời tiết thuở này chẳng qua
Bảo Sát lòng thương xót xa,
Tay đem kinh giáo xuống mà tìm đi
Đường trường lặn lội sơn khê
Đêm ấy phải tối một khi nằm rừng
Coi thấy hắc vân bay không
610.Bảo Sát ngẫm được trong lòng biết hay
Lên đến Ngọa Vân thuở này
Điều Ngự thốt bảo: ”Muộn chầy tao mong
Vạn pháp bản lai chân không
Chẳng mắc mộ pháp mới thông lòng thiền
Ức là pháp tánh tự nhiên
Bất sinh bất diệt bản nguyên lầu lầu
Chư tổ phó chúc bấy lâu
Ấy nghĩa mạt hậu để sau mà dùng
Pháp Loa tao đã truyền lòng
620.Làm đệ nhị Tổ nối dòng Như Lai
Đèn Bụt như lửa mặt trời
Hỏa tinh vô tận mỗi người mỗi cho
Bảo Sát hỏi chúng môn đồ,
Ai ai cũng có minh châu trong mình
Pháp phân nghiêm hỷ trường linh
Tỳ lô đỉnh thượng tung hoành thái hư
Thánh phàm vô khiếm vô dư
Đường đường đối diện như như thể đồng
Giảng hết Thiền chỉ tâm tông
630. Thiên địa chấn động hư không thuở này
Phó chúc ngô thử hình hài
Tượng pháp muôn đời công án độ sinh
Thế thế Thích Tử tu hành
Điều Ngự thụ ký công thành nhiều thay
Thập nhất nguyệt mồng Một nay
Tý thời Phật tổ qui tây Niết bàn
Bảo Sát phụng phó chúc ngôn
Trà tỳ phần hóa hoả quang ngất trời
Pháp Loa, Bảo Sát mọi người.
640.Thu thập ngọc cốt thương ôi những là
Tổ đã một ngày một xa
Ai hầu giáo hóa chúng ta sau này
Dòng dòng nước mắt chảy ngay
Rước về Yên Tử tháp xây làm từng
Một phần xây tháp Phổ Minh
Ấy là Phật cốt uy linh nước này
Đời đời vua chúa kính thay
Để dân tảo lệ xưa nay phụng thờ
Thật dân tam bảo hoàng nô
650.Trung lương Nam vực tích xưa Trần triều
Quan sang thiên hạ thương yêu,
Vì chưng thuở trước đã nhiều nhân duyên
Cúng tăng sự Phật lòng tin,
Coi sóc chùa chiền kỵ lạp hương hoa.
Muôn đời diễn tộ quốc gia
Nước có Phật cốt sinh ra thánh hiền
Nước Nam dẹp được bốn bên,
Vì có Phật báu Hoàng thiên hộ trì.
Đời đời Phật đạo quang huy,
660.Quốc gia đỉnh thịnh càng thì tăng long
Nhân Tông gặp thầy Tuệ Trung,
Làm đệ nhất Tổ Nam cung nước này
Đệ nhị Pháp Loa bằng nay,
Rập đời Anh Tông đêm ngày yêu thương
Đệ tam tổ sư Huyền Quang,
Truyền cho Minh Tông lòng càng từ bi
Dầu ai xem đấy sá nghì
Năm Vua ba Tổ đều thì chứng nên.
Truyền cho thiên hạ bốn bên,
670.Người ta đắc đạo thiên thiên vàn vàn
Nhớ ơn Hoàng Giác vua quan.
Phát lòng tu trước nhân gian học cùng.
Đời đời noi đạo Thiền Tông,
Chính pháp truyền lòng ai được thời hay.
Tổ đã đắp nấm trồng cây,
Mộng bồ đề nở sau này càng cao
Khai hoa kết quả xao xao,
Dõi truyền đất Việt tháp cao trùng trùng
Ai khôn có trí có công,
680.Tu hành ngộ được tâm tông mới mầu.
Nhân duyên có trước có sau,
Ai ai cũng có tính chân bồ đề
Hay ăn hay nói khác chi.
Mày ngang mũi dọc xem thì bằng nhau
Phật tiền Phật hậu trước sau,
Bát nhã huyền chỉ đạo mầu ma ha
Mênh mông bể Thích tuy xa,
Biết đường vượt tắt đến nhà một giây
Lòng Bụt thương chúng sinh thay
690.Bách ban phương tiện mở nay để chờ.
Bằng người cao trí quán cơ,
Thông sao một hớp cạn bờ sông Tây
Bảo thật cứu cánh cho hay.
Tứ mục tương cố thực rầy ấn tâm.
Bụt truyền tự cổ chí kim,
Ai tin thì được ấn tâm thật thà
Xem Thánh Đăng lục giảng ra.
Khêu đèn Phật tổ sáng hòa tam thiên
Việt Nam thắng cảnh Hoa Yên,
700.Sát tiêu cực lạc Tây Thiên những là
Vĩnh chấn cửu phẩm Di Đà
Phần hương chúc thánh quốc gia thọ trường
Đời đời tượng pháp hiển dương
Thiệu long tam bảo Tây Thiên Phật đường
Điều Ngự, Pháp Loa, Huyền Quang,
Tam vị Phật tổ Nam bang Trần triều
Hoa Yên, Long Động, Vân Tiêu,
Quỳnh Lâm tượng pháp độ siêu vô cùng
Kính khuyên Nam Bắc Tây Đông.
710.Muốn được nên Bụt phát lòng xuất gia
Trước là độ lấy thân ta,
Sau là cứu được mẹ cha Tổ huyền
Vua Trần tước lộc binh quyền
Người còn thoát để tu thiền lọ ta.
Cửu liên đài thượng khai hoa,
Những người niệm Bụt Di Đà Phật danh.
Cùng về cực lạc hóa sinh.
Mình vàng vóc ngọc quang minh lầu lầu.
Tiêu dao khoái lạc chẳng âu,
720.Bất sinhbất diệt ngồi lầu tòa sen
Hạnh này cổ tích thánh hiền,
Đời đời san bản để truyền lưu thông
Hậu lai ai có hiếu trung,
Dầu là ngộ được tâm tông hạnh này.
Báo ân Phật tổ mai ngày.
Thiệu Long tượng pháp san lai truyền đời
Công thành quả mãn làm nơi,
Vì hay hà đảm Như Lai Tông thiền
Niêm hoa đã lại khêu đèn.
730. Công ấy muôn ngàn thắng qủa cao thay
Tuệ sách như xiển thuở này
San thiền tông lại để nay lưu truyền
Phổ độ pháp giới hữu duyên
Cùng thành chánh giác qủa viên bồ đề
Mưa xuân đượm ướt vuờn lê
Cành cao cành thấp đều thì nở hoa
Cho hay Đức Bụt Thích Ca
Hóa thân bách ức khắp hòa mười phương
Hiện ra làm quyền Đế vương
740.Chí tôn Phật Tổ Giác Hoàng quốc trung
Cơ duyên ứng xuất vương cung.
Cơ duyên mãn hữu hội đồng Linh sơn
Chân Phật nào có Niết Bàn
Nghiệm chứng không tịch phục hoàn bản nguyên
Hóa Phật thụ ký vô biên
Tứ mục tương cố mật truyền tâm tông
Ai khôn chớ chạy tây đông
Bôn trì nam bắc luống công mê hồn
Liễu ngộ bất nhị pháp môn
750.Chân không tự tánh chẳng còn cầu ai
Điều Ngự Cổ Phật tái lai
Tôn giáo trong ngoài phó chúc tuân y
Thực dòng Lâm Tế tông chi
Pháp phái vĩnh thùy Yên Tử thiền lâm
Đạo truyền tự cổ chí kim
Thánh Đăng cửu phẩm Tây Thiên Di Đà
Phật đạo vô thượng chí tôn
Quốc gia vĩnh cửu càn khôn vững bền
Phổ nguyện pháp giới hữu duyên
794.Đồng đăng cửu phẩm Tây Thiên Di Đà
Vậy có kệ rằng:
“Tánh vốn làu làu tri bất tri
Đêm ngày bảo nhậm chữ vô vi
Bụt chính là vua, vua là Bụt
Tung hô vạn tuế thọ tăng kỳ”

2. Thiền Tịch Phú
Chân Nguyên Tổ sư trụ trì Yên Tử Sơn, Lân Động Tự trước tác:
* Xem Bản phiên âm Thiền Tịch Phú trong sách Chân Nguyên Toàn Tập của Lê Mạnh Thát.
1.Tịnh Độ Yếu Nghĩa
Bản in sách “Tịnh độ yếu nghĩa” của Thiền sư Chân Nguyên hiện còn là bản in năm 1860 (năm Tự Đức thứ 13) do Tỳ kheo ni Diệu Thủy chùa Địa Linh ở Tây Hồ, Hà Nội đứng ra lo thực hiện, dưới sự chứng minh của Hòa thượng Phước Điền, chùa Liên Phái (Liên Hoa - Liên Tông), sư Chiếu Kiên chùa Càn An và sư Đạo Huân chùa Quảng Bá ở Hà Nội.
Trong sách này, in chung “Tịnh độ yếu nghĩa” của Thiền sư Chân Nguyên với sách “Bồ đề yếu nghĩa” của Thiền sư Chuyết Chuyết -Viên Văn và kinh Vô Lượng Thọ.
Bản in sách “Tịnh độ yếu nghĩa” do Tỳ kheo ni Diệu Thủy in lại theo bản in của Sa môn An Trụ khắc vào năm 1851. Bản in của Sa môn An Trụ đã dùng bản in của Sa môn Tánh Tuyên thực hiện vào năm 1747 vì trong bản in 1851, sau lời tựa của Sa môn Tánh Tuyên (viết năm 1747). Sa môn An Trụ có chua thêm câu: “Vào ngày tốt của tháng 9 năm Tự Đức thứ 4 (1851), Sa môn An Trụ chùa Giải Oan in lại. Kim Anh bảo tháp sa môn Thanh Tiếp chứng san”.
Trong lời tựa, Sa môn Tánh Tuyên có cho biết: chính “Tăng thống Tuệ Đăng, Chánh Giác Hòa thượng, Tỳ kheo Chân Nguyên đã phó chúc cho tôn thừa Tánh Tuyên phụng hành kính in”, trong việc in lại “Bồ đề yếu nghĩa”, tức trùng san Ngũ chủng bồ đề yếu nghĩa tứ văn, Tánh Tuyên cũng đã in thêm vào “Tịnh độ yếu nghĩa” của Thiền sư Chân Nguyên.
Nội Dung “Tịnh Độ Yếu Nghĩa” Của Thiền Sư Chân Nguyên
Thiền sư Chân Nguyên đã viết “Tịnh độ yếu nghĩa” dựa theo các tài liệu cũ như:
- Long thư Tịnh độ văn do Tiến sĩ Vương Nhật Hựu, đời Tống, viết vào năm 1160 (Đại Tạng kinh 1970).
Long thư Tăng quảng Tịnh độ văn: (Tịnh độ khởi tín (?), Lâm Chung Tam Nghi của Từ Chiếu, Lâm chung vãng sinhchính niệm văn của Thiện Đạo).
Thêm một số quan niệm (của Thiền sư Chân Nguyên) về pháp môn Tịnh độ. Sách “Tịnh độ yếu nghĩa” gồm có 6 mục:
I.Thiện Ác Báo Ứng, Nhân Quả Không Sai
Người ta có thể không tin nhân quả, do đó mà không tin Tịnh độ, mà nhân quả há có thể không tin được sao? Kinh nói rằng: “Muốn biết nhân đời trước, (nhìn xem) đời nay chịu những gì ; muốn biết quả vị lai (nhìn xem) đời nay làm những gì ? Nếu không tin lời nói ấy, sao không đem việc trước mắt mà xét coi? Người ta sinh ra, sở dĩ có giàu nghèo, có sang hèn, có sướng khổ, có vất vả thong dong, có vinh nhục, thọ yểu, mọi thứ may rủi nó không giống nhau. Tuy nói là mệnh trời, nhưng trời há thiên vị riêng ai; ấy bởi vì việc làm đời trước người ta không giống nhau nên ngày nay chịu quả báo cũng không giống nhau, và trời đặc biệt chủ trì đó thôi.
Vì thế, thân này gọi là báo thân. Báo thân là báo đáp cái việc làm đời trước của ta, nên sinh ra thân này. Trời có lòng chứa chấp sao? Ví như người ta có công hay tội ở ngoài, nên chịu thưởng hay phạt ở trong phủ của quan. Quan phủ há riêng thiên vị ai ư ? Chỉ đặc biệt đem người có công đáng thưởng, có tội đáng phạt mà chủ trì đó thôi. Há đem việc thưởng phạt vô cớ mà ép lên người ta. Quan phủ ở đời còn không đem thưởng, phạt vô cớ mà ép lên người ta. Huống trời đất tạo hóa đem họa phúc vô cớ mà đem áp đặt lên con người sao? Do thế, biết rằng lấy cái việc làm của đời trước có lành dữ, mà đem họa phúc báo đáp đó thôi.
Vì người ta không hay giỏi việc lành, nên không được hay hưởng phước báo. Có kẻ giàu sang mà đau khổ, chết yểu. Có người nghèo hèn mà sống lâu, sung sướng. Có kẻ vinh sủng mà áy náy nhục nhã. Cái quả báo của mình, mỗi mỗi tùy việc làm của mình, như bóng theo hình, như vang đáp tiếng, mảy may không sai. Cho nên nói: “Trồng đào được đào, trồng mận được mận”. Chưa có cái chuyện trồng mè mà được đậu, trồng lúa mà được nếp. Chỉ có khi trồng thì ít, mà khi thu hoạch thì nhiều. Lúc làm việc lành hay dữ thì nhỏ, mà lúc nhận báo họa hay phúc lại rất lớn. Cho nên nói:
Xuân gieo một hạt lúa Thu gặt muôn trái sai, Đời người làm lành dữ Quả báo lại như vầy.
Ấy bởi lẽ tự nhiên của tạo hóa. Lẽ đó đáng tin, thì thuyết Tịnh độ tất cũng đáng tin. Vì sao? Vì hai điều ấy đều do Phật dạy. Đức Phật đã thành thật dạy về nhân quả, tất không nói dối về Tịnh độ, cho nên không tin nhân quả, từ đó mà không tin Tịnh độ, điều này bây giờ có thể đem ra mà cởi mở hết sai lầm. Kệ rằng:
Muốn biết nhân đời trước, Đời nay chịu những gì, Muốn biết quả đời sau, Đời nay làm những gì.
(1) Phần nầy, Thiền Sư Chân Nguyên trích lại “Tịnh độ khởi tín” trong sách Long Thư tăng quảng Tịnh độ Văn và thêm bài Kệ (Theo Tiến sỹ Lê Mạnh Thát)

---o0o---

II.Tín Tâm, Phát Nguyện Niệm Phật, Hoa Sen Chín Phẩm Nở Trong Hồ

Hoặc có kẻ nghi: người ta niệm Phật trong cõi này thì làm sao trong hồ bảy báu ở phương Tây hoa sen một đóa liền mọc ? Tôi xin trả lời: Điều ấy không khó biết. Ví như một cái gương lớn, hễ có vật gì đem đến thì bóng nó liền hiện. Gương thường có lòng chứa chấp sao? Ấy vì nó sáng mà tự nhiên như thế. Trong cõi Đức Phật A Di Đà thanh tịnh sáng suốt, trong sạch, nên tự nhiên chiếu rọi khắp nơi mười phương thế giới: giống như soi gương sáng mà thấy bóng mặt mình. Cho nên, cõi này ta niệm Phật thì trong hồ bảy báu ở phương Tây, tự nhiên mọc lên một đóa hoa sen, điều ấy không đáng nghi.
Hoặc có người nghĩ: khi niệm chân ngôn “Vãng sinh” thì Đức Phật A Di Đà thường ở trên đỉnh đầu mà hộ vệ cho người đó; nếu vô lượng thế giới có vô lượng chúng sinhcùng niệm chân ngôn ấy, Đức Phật A Di Đà há có thể mỗi mỗi ở khắp các đỉnh đầu ư ? Xin trả lời: Việc ấy cũng tự nhiên thôi. Ví như trên trời chỉ có một mặt trăng, mà hiện khắp hết cả mọi dòng sông, há không tự nhiên sao?
Hoặc có người tu hành siêng năng nghi rằng: lại đến lúc sắp chết, Đức Phật cùng Bồ tát đến rước, nhưng mười phương thế giới có vô lượng chúng sinhcũng siêng năng, há Phật có thể biết được đúng lúc mà đến rước sao? Xin trả lời: Điều ấy cũng tự nhiên thôi. Ví như, trên không chỉ có một mặt trời mà rọi khắp vô số cảnh giới há không tự nhiên ư ? Huống nữa là oai thần của Phật không chỉ như mặt trăng, mặt trời thì việc Ngài ở khắp các đỉnh đầu, biết khắp các lúc hẹn, lại đáng nghi sao? Kệ rằng:
Niệm Phật cõi người, Tịnh độ hoa nở,
Hóa sinhTịnh độ, Tất thấy Như Lai.

---o0o---

III.Khắp Khuyên Niệm Phật, Cùng Sinh Tịnh Độ

Lúc người ta sống ở đời, cha mẹ vợ con, nhà cửa ruộng vườn, trâu dê xe ngựa, cho đến những vật như bàn ghế đồ đạc, áo quần cân đai, không kể to nhỏ, hoặc do ông cha truyền lại cho mình, hoặc do mình tự kinh doanh mà được, hoặc do con cháu hay người khác vì mình chứa nhóm mà được, mọi thứ không gì là không phải của cải mình. Đến như sợi dây cửa, tuy nhỏ, mà bị người rứt ra, còn có lòng giận. Một cái kim tuy nhỏ, bị người lấy đi mất, còn có lòng tiếc. Kho lẫm đã đầy, lòng còn thấy chưa đủ. Vàng lụa quá nhiều, kinh doanh vẫn chưa ngừng. Giương mắt đưa chân, không gì là không ưa thích, ôm chặt. Một đêm ngủ ở ngoài, lòng đã nhớ nhà. Một đứa ở chưa về, lòng đã lo nó đi mất. Mọi thứ sự vụ, không có gì là không đoái hoài. Một sáng, hạn lớn đến nơi, hết thảy đều phải vứt bỏ. Ngay cả thân ta đây còn là đồ bỏ, huống nữa là những vật ngoài thân ư ? Lắng lòng mà suy nghĩ, hốt hoảng như một cơn mộng, cho nên Trang Tử nói: “Khi đã tỉnh giấc hẳn rồi, sau mới biết đó là cơn mộng lớn”.
Người xưa có dạy:
Vô thường tới một khi
Mới hay người trong mộng
Muôn thứ đem chẳng đi
Trong mình chỉ có nghiệp (3)
Mầu nhiệm thay lời nói ấy. Tôi có ý dùng hai câu sau nối tiếp thêm hai câu nữa thành một bài kệ:
Muôn thứ chẳng đem đi
Theo mình chỉ có nghiệp.
Chỉ niệm Phật A Di
Nhất định sinh Cực Lạc.
Bởi nghiệp, tức nói nghiệp thiện, nghiệp ác: Chúng đều có thể đem đi được hết, há không đáng lấy Tịnh độ làm nghiệp ư ? Có trưởng lão Liễu Minh vì mọi người thuyết pháp, chỉ cái thân này mà nói: “Đó là đồ chết, bên trong nó đang rữa nát. Là vật sống, đừng có dựa trên vật chết mà trù tính kế sống ; Nên dựa trên vật sống mà trù tính kế sống”. Tôi rất thích lời nói ấy, nên thường nói lại cho mọi người: “Hễ tham lam mọi thứ vật bên ngoài để cung phụng cho tấm thân này, đều là dựa trên vật chết mà trù tính kế sống”. Người đời tuy chưa thể miễn được điều đó, nên trong khi kinh doanh nhằm phụng dưỡng thân mình, đem cái phút giây dư dả, phản tỉnh tự xét soi, để lưu tâm đến Tịnh độ. Ấy là dựa vào vật sống mà trù kế sống. Nếu như cứ lo bôn ba kinh doanh thì dù có giàu như Thạch Sùng, sang tột nhất phẩm, rốt cuộc cũng có lúc hết số. Há bằng sự không hết số của Tịnh độ ư ? Kệ rằng:
Vô thường tới một khi
Mới hay người trong mộng.
Muôn thứ đem chẳng đi.
Theo mình chỉ có nghiệp
Chỉ niệm Phật A Di
Nhất định sinh Cực Lạc

---o0o---

IV.Niệm Phật Là Con Đường Ngắn Nhất Và Mau, Tất Được Vãng Sinh Thế Giới Cực Lạc

Lúc Đức Phật Thích Ca còn ở đời, có hai ông bà dùng một đấulúa để ghi số lần niệm Phật A Di Đà, nguyện vãng sinhTây phương,Đức Phật dạy: “Ta có riêng một phương pháp, khiến người niệm Phật một tiếng, được nhiều số lúa”. Bèn dạy họ niệm: “Nam mô Tây phương cực lạc thế giới tam thập lục vạn ức nhất thập nhất vạn cửu thiên ngũbách đồng danh đồng hiệu Đại Từ Đại Bi tiếp dẫn Đạo sư A Di Đà Phật (trích Bảo Vương luận ). Ta thường đem lúa nếp ra đếm thử, một lần niệm ấy nhân với 1.800 hạt thì số ấy lên tới hai ngàn thạch. Đức Phật tự đem điều ấy dạy cho hai người già trên thì công đức rất to lớn của nó có thể biết vậy. Nếu người ngu không thể niệm thì niệm một cách đơn giản cũng được. Dạy người ta niệm hoàn toàn thì được phướcbáo rất lớn, hoặc từ tụng kèm theo kinh “Tiểu A Di Đà” hay kinh ĐạiA Di Đà, kinh Vô Lượng Thọ Phật, hay các kinh Phật khác, tùy theo số lượng nhiều ít, hồi hưởng nguyện sinh Tây phương, đều có thể tụng chân ngôn “BẠT NHẤT THIẾT NGHIỆP CHƯỚNG CĂN BẢN VÃNG SINHTỊNH ĐỘ”.
“Nam mô A Di Đà bà dạ đa tha dà đa dạ, đá địa dạ tha, a di rị đô bà tỳ, a di ni đa tất đam bà tỳ, a di rị đa tỳ ca lan đế, a di rị da tỳ ca lan đá, dà di nị, dà dà na, chỉ đa ca lệ, sa bà ha.
Kệ rằng:
Già đến tu đường ngắn
Chuyên niệm Phật A Di
Một báo thân này hết
Nước Cực lạc cùng về.
(Đức Phật Thích Ca chính mình đem thánh hiệu trên dạy cho hai người già, điều đó không có thể nghi ngờ nữa. Nếu ai hết lòng tu niệm và tụng chân ngôn vãng sinh, thì cởi hết oan trái, sống lâu, được phước báo to lớn, chứng vô sinhnhẫn, ở vào địa vị không còn khối chuyển. Há không vĩ đại sao. Lữ Nguyên Ích kính khuyên).

---o0o---

V.Chánh Niệm Lúc Lâm Chung

Công tịnh nghiệp dù chưa nhóm thường ngày, nhưng lúc sắp chết, một niệm tối hậu rất là khẩn yếu, bởi vì sinhnơi sạch, nơi dơ ; vào cõi thánh cõi phàm, đều chỉ do một niệm đó làm cho chuyển dời cả. Ta mỗi khi thấy người niệm Phật, lúc thường đều nói cầu sinh Tịnh độ, đến khi sắp chết phần nhiều không có chánh niệm. Họ hoặc tham sống sợ chết, lưu luyến cái bọc da này, hoặc mắt nhìn vợ con không nỡ từ biệt, hoặc ôm đồ của cải, buông xả không ra, hoặc nhân hoàn cảnh không thuận ôm hận mà chết, hoặc bệnh khổ bức bách, ngậm đau mà khuất. Khi đã mất niệm chánh, họ cam chịu nổi trôi rơi rớt.
Lại có người hoặc nghi một đời nghiệp nặng, Tây phương không có phần hoặc có kẻ tự nghi niệm Phật ít ngày, không dám hy vọng vãng sinh, hoặc có vị tự nghi nợ nần chưa trả, tâm nguyện chưa thành, tham sân chưa dứt, khó sinhcõi kia. Hoặc có người tự nghi, ta tuy niệm Phật nhưng Phật không đến tiếp dẫn. Bốn hạng người ấy đều tự tạo nghi chướng, mà mất chánh niệm.
Hoặc có kẻ xưa nay niệm Phật siêng năng, bỗng mắc bệnh khổ, liệt giường liệt chiếu, đau đớn không kham, đó là nghiệp xưa sâu nặng, phải rơi vào đường dữ, nhưng vì niệm Phật chuyển nặng thành nhẹ, phải nên chịu đựng, càng siêng niệm Phật, tất được vãng sinh. Nếu oán thán là Phật không linh nghiệm, trở sinh lòng thối chuyển thì tất phải sa địa ngục.
Hoặc có người bình thường, tuy nói niệm Phật, nhưng lòng tham sống thật nặng, một sáng bệnh khổ đến thân, liền tin thầy quấy, thuật quê, giết hại chúng sinh, thiêu đốt vàng mã, cầu đảo yêu quỉ, hy vọng phúc hựu, nhân vì lòng quấy ấy, chư Phật không hiện. Hoặc có kẻ vì bệnh, tin lời thầy thuốc mà uống rượu ăn thịt, hay giết hại sinh mạng để làm thuốc, khi đã tán mất căn lành, tất phải theo nghiệp mà chuyển đổi. Ba hạng người trên nhân vì bệnh đau, dấy lên chướng ngại mà mất chánh niệm.
Ta nay khuyên người niệm Phật, đến giờ phút đó, thì chỉ xác tín lời kinh dạy, kiên quyết giữ vững chánh niệm, mọi thứ đều buông xuống niệm Phật đợi chết ; đối với ba cõi, dấy lên cái ý niệm nhà tù: đối với vợ con dấy lên cái ý tưởng oan gia đối với của cải, dấy lên cái ý niệm gông cùm; đối với thân mình dấy lên cái ý niệm bọc da hôi thúi, dấy lên cái ý niệm sọ xương khô. Bà con trong nhà và khách ngoài đến viếng bệnh, đều trước hết chia phiên nhau, dạy cho họ niệm Phật giúp thêm, không được nói năng những chuyện giải trí, không được đem việc nhà ra bàn, không được than vãn ồn ào, khóc lóc rơi lệ v.v... Đợi đúng đến khi hơi nóng đã rời khỏi mình mới được cử ai. Nếu y vào đó thì chắc chắn được vãng sinh. Dầu cho người nay không từng niệm Phật, nếu có thể y vào phép đó, thì không ai là không được vãng sinh. Than ôi, cửa chết là việc lớn, giây lát mà trở thành đời sau, một niệm sai chạy, suốt kiếp chịu khổ, có thể không cẩn thận sao? Kệ rằng:
Ba tâm dũa được đồ giác ngộ ,
Máy trí tròn nên sáu niệm vì,
Bất động luôn luôn trong nhất nghĩa, Trên sen chín phẩm hiệp cùng về.
(1) Ba tâm: Thành tâm, Thâm tâm, Hồi hướng tâm.
(2) Sáu niệm (6 nhớ nghĩ): Nhớ nghĩ về Phật, Pháp, Tăng, Trời, Bố thí, trì giới.
(3) Hai tánh không: Nhân không và pháp không.

---o0o---

VI.Cho Nên Hiểu Ngay Yếu Môn “Niệm Phật”, Lý Tánh Không Dứt Mất

Hỏi: Kinh dạy pháp môn dứt và không dứt là sao? Đáp: là vì hai tánh không , Thấy và nghe không sinhấy là dứt. Dứt tức là các lậu dứt, không dứt tức ở trong cái thế không sinh, vốn nó đủ hằng sa diệu dụng, theo việc mà ứng hiện, tất cả đều đầy đủ, ở trong bản thể cũng không tốn giảm gì, ấy gọi là không dứt. Đó tức là pháp môn Dứt và Không dứt. Lại hỏi: Phật pháp không dứt hữu vi, không bám vô vi, không dứt hữu vi là gì ? không bám vô vi là gì? Đáp: không dứt hữu vi, tức xưa đức Thích Ca từ khi mới phát tâm đến lúc thành Chánh đẳng chánh giác ở dưới cây bồ đề, sau đến song lâm mà nhập Niết bàn, trong thời gian đó, tất cả các pháp hết thảy đều không dứt bỏ. Ấy tức là không dứt hữu vi.
Không bám vô vi là tuy thực hành vô niệm, không đem vô niệm mà chứng quả; tuy thực hành không, không đem không mà chứng; tuy thực hành bồ đề Niết bàn không tướng, không làm; không đem không tướng, không làm mà chứng, ấy là không bám vô vi. Kệ rằng:
Phật dạy tất cả các pháp
Đều do từ vô trú,
Ta từ chỗ vô trú
Chỗ đó gặp Như Lai

Những kệ Đốn Ngộ:
Một tánh sáng tròn rực thái hư
Chỉ nhân niệm dối kết nên thân
Nếu ai ngồi lặng soi trong sáng
Trong sáng tịch thường một vật không
Lại kệ:
Một tánh sáng tròn mỗi mỗi cùng
Bao la trời đất thảy hư không,
Ta nay thẳng nhắm Tây lai ý
Lòng vắng, biết không ấy chánh tông
Lại kệ:
Sáng vượt trời trăng trấn như như
Càn khôn soi khắp rực thái hư
Phật với chúng sinh đều một tánh
Giống tròn không thiếu cũng không dư
Kệ “Tự tánh mặc làm” :
Rực rỡ phân minh suốt đêm ngày
Cái đây tự tánh mặc làm đi,
Sáu căn vận dụng thường thường hiện
Muôn pháp tung hoành khắp biết ngay.

Kệ “Dơ cánh hoa lòng”:
Nhân duyên to lớn Phật ra đời
Ca Diếp ấn truyền ngộ được thôi,
Cầm hoa cười mỉm còn nguyên đó
Lá đẹp hương bay khắp đất trời.

Kệ “Mật trao đèn lòng” :
Một điểm đèn lòng mắt Phật sinh
Tương truyền bốn mắt đối phân minh
Nối hương tiếp lửa, luôn luôn sáng
Gieo khắp rừng thiền gởi hữu tình.
Nhưng Hòa thượng Tuệ Đăng không quên bản nguyện, đem hết thân tâm phụng sự chúng sinh, dùng để báo đáp ơn đức của Phật, gánh vác công việc Như Lai, mở bày chánh pháp, rộng tiếp hậu học, chỉ bày tâm tông, ba đời các Đức Phật bốn mắt nhìn nhau, chỉ thú chân không, lặng thấy mà kế thừa gánh chịu, nối hương tiếp lửa, truyền y kế tổ, xưa nay một lẽ, người đến cùng đường, rõ một sát na thành Đẳng chánh giác, khỏi nhọc chạy chọt Nam Bắc, lại bị người lừa gạt, mắc giáo mắc kinh, tìm hàng đếm mực, mải mê xuống biển đếm cát. Kinh dạy: “Thật tướng vô vi, xa hút đi lại, sắc thân hữu lậu đòi hỏi phải dựa vào tu chứng”. Mà tu chứng thì không khỏi cảnh giới núi rừng xa lánh bụi đời, vắng vẻ nhàn nhã. Các đức Như Lai trong ba đời đều trải sáu năm khổ hạnh, Phật Phật. Tổ Tổ, công án trước mắt. Từ xưa đã thế, đến nay còn có thể học, muôn duyên buông xuống, quyết chí lên non, lặng lẽ ngồi thiền dưới gốc cây tùng lớn, hoặc khỏe khoắn ở ẩn trong hang đá già lam, công thực hành Bát nhã sâu xa thì quả bồ đề chứng thành trọn vẹn. Một khi việc làm đã đủ, xuân đến hoa nở, phó chúc yên ổn tốt lành, cùng mặc áo pháp việc úng duyên xong xuôi, phản bổn hoàn nguyên, một niệm Di Đà, tự nhiên ngồi mà mất ; Niết bàn tròn vắng, trơ trơ bốn tướng đều không, pháp tánh trong suốt, hóa hiện hoa sen chín từng một cách tự tại. Kệ rằng:
Tịnh độ rõ ràng trước mắt mình
Phút giây không nhọc đến Tây thiên
Pháp thân đẹp qúa siêu ba cõi,
Hóa hiện Di Đà ngồi chín sen.

2. Sách Long Thư Tịnh Độ Văn
Sách “Long Thư Tịnh Độ Văn” được in vào năm 1878 do Thiền sư Thanh Chí ở chùa Bảo Khám, xã Tế Xuyên, huyện Nam Xương, tỉnh Hà Tĩnh, thực hiện khắc in.
Trong bản in này, Thiền sư Thanh Chí đã giữ lại bài tựa và một bài bạt của Thiền sư Chân Nguyên đã viết trong dịp khắc in vào năm 1711 do vua Lê Hy Tông bảo trợ.
Bản in “Long Thư Tịnh Độ” do Thiền sư Thanh Chí thực hiện vào năm 1878 gồm có:
- “Long Thư Tịnh Độ Văn” do tiến sĩ Vương Nhựt Hựu viết, gồm 10 quyển.
- “Long thư Tịnh độ”: Tập hợp các bài tựa cũ khi khắc in lại sách “Long Thư Tịnh Độ Văn”, trong đó có bài tựa của Thiền sư Chân Nguyên, còn có bài tựa do tiến sĩ Nguyễn Đăng Sở (1753- ?) triều Hậu Lê viết và bài tựa do Thiền sư Khoan Dực viết vào năm Kỷ Tỵ (1809) và Canh Ngọ (1810).
- Bài bạt của Thiền sư Chân Nguyên
Bài Tựa “Long Thư Tịnh Độ Văn” Của Thiền Sư Chân Nguyên
Thái thượng Hoàng đế triều Lê là Chánh Hòa Viên Thông Giác Vương có ban cho một tòa thánh tượng Tây Phương Di Đà Như Lai, Quan Âm và Thế Chí, và ban hai tập “Long thư Tịnh độ” và “Niệm Phật bảo cảnh” thuộc giáo lý chính thống của Liên tông , lại mở ra việc khắc bản chúng nhằm rải khắp mười phương niệm Phật Di đà cùng sinh cực lạc. (Tôi) Kính viết Bài Tựa rằng:
Kính nghe Di Đà trống vắng suốt trong toàn giống thái hư, sức nguyện vụt lên sen chín phẩm treo cao khắp mọi cõi. Cho nên nói đấng Giác ngộ rất trọn vẹn đầy đủ, đáp vết ở Tây Càn, rộng mở cửa 48 lời nguyện, không một căn cơ nào là không được tóm thu vào, dắt dẫn vô số phẩm loại chúng sinh, chỉ niệm mười tiếng là thành công, thương xót hữu tình, từ bi vô lượng. Ấy là Đức Thích Ca Thế Tôn nói bày Tịnh độ.
Nên cư sĩ Long Thư dỗ dành mọi người hiểu cửa mầu của mọi thứ, phương tiện phải khắp muôn pháp, biển giác ngộ tràn đầy, chỉ trở về một thừa, sự lý dung thông, quyền và thật vận dụng thay đổi.
Nay, Hòa thượng Tuệ Đăng, Sa môn Chân Nguyên phái Trúc Lâm, chùa Long Động, núi Yên Tử, bản nguyện không quên, may được vua ban cảm ơn không xiết, lòng còn nhớ bốn ơn phải trả hết, sức muốn mong ba cõi được chia đều, tuân vâng Phật Di Đà, nêu rõ Tịnh độ, trải chọn núi thiêng đất phước là cảnh chùa Hoa Yên và Quỳnh Lâm là nơi nước đảo dân cầu, mãi truyền Tượng pháp, dựng mở chín sen, làm rõ Nam Việt bằng Tây Thiên, diễn bày ba thừa làm lợi quần sinhkhắp thế giới. Những mong y báo và chánh báo luôn luôn sinhtrong nước cực lạc ; bỏ thân và nhận thân rõ ràng tại cảnh giới đức Di Đà, được Phật thọ ký, tùy ước nguyện mình mà độ sinh. Bản nguyện tu hành, công án như vậy, lời không hoa lệ, lòng thật viết tựa văn, để dặn dò người đến sau con đường Tây phương mau ngắn. Một lần niệm tên Phật, sen chín phẩm liền treo tên, giây phút đốn ngộ, đương sinhvề nước kia, hoa nở thấy Phật, chứng quả Bồ đề, thất tổ cửu huyền, cậy được hào quang mà thác sinh về đó.
Kính chúc,
Nước nhà có mãi, xe vàng ngai báu cùng trời đất để trường tồn.
Phật đạo không cùng, pháp tượng đài sen, ngang núi thiêng mà bất hủ.
Cẩn tự
Bấy giờ là ngày tốt, tiết mùa xuân, năm Tân Mão, Triều Lê Vĩnh Thịnh thứ bảy (1711).
Hòa thượng Tuệ Đăng, Chân Nguyên, phái Trúc Lâm - in lại, đệ tử tự pháp Như Nhuận vâng làm.

---o0o---

“Bài Bạt” Sách Long Thư Tịnh Độ Văn

Phàm chân lý thì dứt hết nói năng, không nói năng thì không thể đến được chỗ đạo mầu nhiệm. Hễ đạo lý thì do tiến đến sự thật, không tiến đến sự thật thì không do đâu mà tới nơi quán hạnh tế vi. Nói năng là để đúc kết lại lời văn. Lời văn là để chuyên chở đạo lý. Ấy là công cụ chung của thiên hạ, làm rung động tới muôn đời mà không mòn mất đi được. Vậy nên (sách) “Long thư Tịnh độ luận” thực sự do tiến sĩ Quốc Học Vương Nhật Hữu, tự là cư sĩ Hưng Trung, triều Tống biên soạn, bằng cách trích lấy giáo lý đúng đắn về Tây phương trong 48 lời nguyện của kinh Đại A Di Đà, 16 phép quán của kinh Vô Lượng Thọ và trưng dẫn các kinh khác kèm theo làm chứng, để góp nhặt lại, viết ra cuốn luận ấy.
Kính nghĩ bậc Đại Giác Di Đà chí tôn ở phương Tây thực là vị Phật thứ nhất của các Đức Phật trong mười phương ba đời. Đức Thích Ca Như Lai đã đem pháp môn tối thượng trong tám vạn bốn ngàn pháp môn, rộng bày cho chúng sinhthứ tự tu tập Tịnh Độ. Nó là con thuyền từ chở hết sáu đường vượt qua biển khổ. Người ta dùng sức rất đơn giản mà chứng quả lại rất mau. Ai có thể chí thành phát tâm niệm Phật thì đời nay thẳng tới Tây phương là chuyện hẹn được. Xuất gia tại gia, trai lành, gái tín, muôn người tu, muôn người đắc, kết quả không còn ngờ.
Vậy nên Hòa thượng Chân Nguyên bùi ngùi than rằng: “Duyên xưa sao may mắn, lại được Vua ban cho kinh, dùng trả ơn Phật, cùng sinh Tịnh độ”. Do thế sợ mất quyển luận này, người sau khó thấy, bèn mộ duyên làm phước, khắc bản để lưu truyền, dạy khắp mười phương, cùng được lòng tin chứng thật, một lòng niệm Phật, sen chín phẩm nêu tên lúc nào rời bỏ báo thân, tức sinhvề nước Cực lạc. Lại nói: ra đời xong việc, cởi bỏ xác thân hoa hư không, mà lên Niết bàn yên vắng, trơ trơ bốn tướng đều không, pháp tánh nguồn trong, hóa hiện chín sen tự tại, được thọ ký xong, y nguyện độ sinh pháp giới hữu tình gặp duyên công đức, khắp nguyện hồi hương, đều đến Tây phương.
[ Theo sách Thiền sư Chân Nguyên Toàn Tập của Tiến sĩ Lê Mạnh Thát]

---o0o---

3.Truyện Thơ Nôm “Nam Hải Quan Âm Bản Hạnh” Của Thiền Sư Chân Nguyên”.

(1) Xem “Chân Nguyên Toàn Tập” của Lê Mạnh Thát tập II, Tụ Thư Vạn Hạnh năm 1979 (In Roméo)
Truyện thơ nôm “Nam Hải Quan Âm bản hạnh” của Thiền sư Chân Nguyên, chưa biết được biên soạn vào năm nào và được khắc bản in lần đầu năm nào, giáo sư Lê Mạnh Thát nói tìm được một bản in lại, do Vũ Tạo và Vũ Thị Năm ở thôn Kim Cổ, tổng Thuận Mỹ, huyện Thọ Xương, tỉnh Hà Nội, thực hiện vào tháng Một năm Canh Tuất, niên hiệu Tự Đức thứ ba (1850) với sự chứng minh của Tỳ kheo Từ Đàm ở chùa Pháp Quang. Sách này có ghi “Trúc Lâm Tuệ Đăng Hòa thượng Chánh Giác Chân Nguyên diệu soạn”.
Truyện thơ “Nam Hải Quan Âm Bản Hạnh” này có tên đầy đủ “Nam Hải Quan Âm Bản Hạnh Quốc Ngữ Diệu Soạn Trùng San” gồm 43 tờ, khổ 17 x 28, có 1650 câu thơ lục bát, nhưng chẳng may, sách bị mất hết tờ 42, nên truyện thơ chỉ còn 1.640 câu.
Truyện thơ “Nam Hải Quan Âm Bản Hạnh” có thể chia làm ba phần chính như sau:
Phần I: (Từ câu 1 đến câu 42): giới thiệu hoàn cảnh lịch sử và lý do ra đời của tác phẩm.
Phần II: (Từ câu 43 đến câu 1574): mô tả cuộc đời tu hành khổ hạnh của công chúa Diệu Thiện cho đến ngày đắc quả Bồ tát. Phần này có thể chia thành làm 8 đoạn chính:
- Đoạn 1: (câu 43-240): Trang vương cầu con ở đền Tây Nhạc, Ngọc Hoàng cho vua Trang vương ba đứa con gái Diệu Thanh, Diệu Âm và Diệu Thiện.
- Đoạn 2: (câu 241-486): Công chúa Diệu Thiện quyết chí xin vua cha cho xuất gia tu hành, bị đày ra sau vườn.
- Đoạn 3: (câu 487-644): Diệu Thiện đến tu ở chùa Bạch Tước, vua ra lệnh giết sư, đốt chùa.
- Đoạn 4: (Câu 645-870): Diệu Thiện bị đem xử tử, cọp tha vào rừng và Diệu Thiện đi thăm 18 ngục ở âm phủ.
- Đoạn 5: (câu 871 - 1020): Diệu Thiện gặp Phật Thích Ca thử thách và đưa đến tu hành tại núi Hương Tích, sau có hai đệ tử là Thiện Tài và Long Nữ.
- Đoạn 6: (câu 1021-1244): Trang vương bị bệnh nặng, Diệu Thiện hy sinh cả tay và mắt mình để trị bệnh cho cha.
- Đoạn 7: (câu 1245 - 1520): Trang vương lành bệnh, vua và Hoàng hậu đi thăm Diệu Thiện ở động Hương Tích, bị ma quỷ bắt trong khi đó con rể cướp ngôi vua, Diệu Thiện dẹp yên.
- Đoạn 8: (câu 1521-1574): Diệu Thiện được phong làm Bồ tát “Đại từ đại bi cứu khổ cứu nạn (quảng đại) linh cảm - Quan Thế Âm Bồ tát”... ngự ở núi Phổ Đà Nam Hải.
- Phần III: (Từ câu 1575 đến câu 1604): Tổng luận về Bồ Tát Quan Âm Nam Hải và quá trình ra đời của truyện này.
Ngoài truyện “Nam Hải Quan Âm Bản Hạnh Quốc Ngữ Diệu Soạn” do Vũ Tạo và Vũ Thị Nam in lại vào năm 1850 này, còn có một số bản in khác:
- “Nam Hải Quan Âm Phật sự tích ca” hay “Đức Phật Bà truyện” bằng chữ Nôm do chùa Vũ Thạch ở Hà Nội in, không có ghi năm in, có thể được in sau quyển sách trên. Sách này khổ 16 x 26 cơ 42 tờ, mỗi tờ hai trang, gồm 1430 câu thơ lục bát (có xen vài câu song thất lục bát).
- Phật Bà Quan Âm diễn ca hay “Nam Hải Quan Thế Âm sự tích diễn ca”, bên trong có chữa thêm “Truyện Phật Bà chùa Hương” do nhà in Phúc Chi ở Hà Nội xuất bản, không ghi năm in truyện thơ chữ quốc ngữ này gồm 1426 câu thơ lục bát, phiên âm lại quyển của chùa Vũ Thạch....

---o0o---

Nam Hải Quan Âm Bản Hạnh
(Quốc ngữ Diệu soạn trùng san)
(Vũ Tạo in năm 1850)

Của Thiền Sư Chân Nguyên hay Hòa Thượng Tuệ Đăng
1.Nhớ xưa hội cả Kỳ Viên,
Mấy lời kim khẩu còn truyền tới nay
Vang vang cửa pháp rộng bay
Gió từ mưa thụy thoảng rây đượm nhuần
Giác thiên một áng từ vân
Ba ngàn thế giới lần vần bóng in
Liễu dòng thiền buông bè
Bát nhã Biển chân như để tả niềm ân
Lênh lang bể Thích rộng sâu
10. Đạo từ bi ấy nhiệm mầu nẻo xa
………………………………………………………………….
37. Ai ai nhàn hạ thông dong,
Nhân sơn trí thủy cùng ngong giáo thiền
Mộng xem kinh lục để truyền
40. Thấy kinh Nam Hải Thánh hiền hạnh tu
Gẩm nhiều khó nhọc công phu
Nhà nào bia tạc muôn thu chữ vàng
Thuở ấy vua Diệu Trang Vương
Trị Hưng Lâm quốc bốn phương thuận hoà
Chánh phi Bảo Đức Bá Nha
Sáu cung tần nữ quản hòa làm nơi
………………………………………………………………
187.Nghe tâu Thượng đế cả mừng
Phán đòi phó dữ Bắc Thần lãnh ra
Chuyển Nam vi Nữ đều ba
190.Tam hồn ứng xuống dưới tòa Trang Vương
Tự nhiên chuyển động Thánh Vương
Bảo Đức Hoàng hậu một đường thọ thai.
Lòng vua mừng rỡ hôm mai
Ơn thần cảm ứng chẳng sai đâu là.
No ngày kết tử khai hoa
Được một công chúa đặt là Diệu Thanh
Lòng vua ngần ngại đòi phen
Phán rằng nữ tử hầu nên giống gì
Năm sau thai dựng đến kỳ
200.Mãn nguyệt vậy thì no ngày giáng sinh
Trang vương phán hỏi toác nanh
Phải Hoàng thái tử út dành thế ngôi
Nhược mà con gái thì hoài
Đem đi ém tử cho vùi là bây
Cận thần bước đến tâu bày
Tình thâm nguyên khí giết rày sao nên
Vua nghe mãng tiếng tâu lên.
Vậy bèn lại giản lòng hờn phán tha
Đặt tên Diệu Âm vậy là
Lừa lửa chẳng ngờ mình lại có thai
Trong cung nức những hương trời
Hào quang sáng khắp mọi nơi chương tòa
No ngày thuở ấy sinh ra
Lại được công chúa mặt hoa dày dày
..........................................................
..........................................................
Đặt tên là Diệu Thiện nay
Đến từ tuổi cả vừa hay thốt cười Nết na tư chất khác người
Tố tâm trai giới hảo nơi làm lành Muốn thay trì chú niệm kinh
Âm ỉ một mình chẳng dám bảo ai
......................................................

285.Ta là Phật Tổ Như Lai
Thấy người có đạo ướm chơi biết tình
Thư rằng nhãn nhục nan minh
Thích Ca bèn dẫn lộ hành Tích sơn
Đấy gần Nam Hải Việt bang

890.Tu ắt bằng đường Phật quả tảo đăng
.........................................................

1521.Lăng Nghiêm kinh thuyết đã tường
Quan Âm phép hóa muôn đường lạ thay
Tạo tượng làm no ngàn tay
Đủ ngàn con mắt khắp rày sáng thân
Hạnh này ai thấy chưng sâu
Kẻo còn vọng thuyết lỗi âu đến mình
Thiên thủ thiên nhãn oai linh
1530.Vạn trạng vạn hình biến hóa thần thông
..............................................................
1567.Tạ ân thượng đế đã yên
Từ ấy danh dậy hết miền Hương Sơn
Khắp hòa chư Quốc vạn bang
1570. Thế thế lưu truyền kỳ đảo linh thông
Đâu đâu tin kính khâm sùng
Cầu ắt bằng lòng, nguyện ắt như ngôn
Non dời bể cạn đá mòn Hương sơn
Nam Hải dấu còn chẳng phai
1575. Hạnh này vốn đã truyền đời
Thọ Tiên Diên Khánh công người bỏ ra
Song còn lược giải nói qua,
Nguyên nay dịch lại thật thà nghĩa kinh
Tinh tường sự lý phân minh
1580. Y như trong truyện tập thành phương ngôn
Tán ra khắp hết càn khôn
Người ta được biết Bụt Tiên ở lòng
Pháp thân trạm tịch viên thông
Tịch quang phổ chiếu viên đồng thái hư
Tùy hình ứng vật tự như
Hóa thân bách phúc độ chư mọi loài
Quan âm Cổ Phật tái lai
Hiện làm Công chúa độ người vạn dân
Bề trên báo được tứ ân
1590. Bề dưới chữa khỏi trầm luân tam đồ
Thần thông nang cứu ngục tù
Năng cứu cấp nạn diệu thù vạn ban
Có thân tọa Phổ Đà San
Tầm thanh cứu khổ thế gian sa bà
Có thân chầu Bụt Di Đà
Thiệu Long Phật vị Liên Hoa Bảo Đài
Khắp hòa dưới đất trên trời
Phổ môn thị hiện độ loài chúng sinh
Trí giả quán kỳ âm thanh
1600. Giác tri tự tánh phân minh ròng ròng
Bản lai diện mục chân không
Nào có chấp tướng đàn ông đàn bà
Cửu liên đài thượng khai hoa,
Những người niệm bụt Di
................

Contact Information

Phone
Array
Address Array
This entry was posted in . Bookmark the permalink.