Personal Information
Danh Tánh
|
TS Đàm Phỉ
|
|
Gender | ♂️ Male |
Hành Trạng
Additional Info
Đàm Phỉ: Ngài họ Vương, người xứ Diệm, Cối Kê. Thuở nhỏ Xuất Gia thọ giáo nơi Pháp Sư Tuệ Cơ. Tính thông minh, mẫn tiệp vốn mang danh bác học. Ngài tham cứu các Kinh Phương Đẳng một cách triệt để. Cho đến Lão, Trang, Nho, Mặc đều thành thạo. Sau đó chu du khắp Đông Tây để tham vấn học hỏi. Thấu tột yếu chỉ của Kinh luận, Ngài ở Chùa Pháp Hoa Đài ở Hương ấp, giảng dạy thuyết pháp liên tục, học chúng vô số. Ngài là một người tính tình phóng khoáng, chí dụng thanh huyền cho nên trở thành bậc kiệt xuất đối với Tiểu phẩm và Tịnh Danh. Lại còn có tài vấn đáp, biện thuyết sắc bén, linh động, lời lẽ hoa mỹ. Phong cách trên tòa rất được xem trọng. Hoành Dương Hiếu Vương Nguyên Giản nhà Lương và Ẩn sĩ Lô Giang Hà Dận đều ngưỡng vọng đức độ của Ngài nên từ xa triệu thỉnh về giảng thuyết. Trương Dung ở nước Ngô và Chu Ngung, con của ông là Xá ở Nhữ Nam cùng nhau kết Tam Thi Âm. Ngài tịch ở Chùa vào năm Thiên Giám thứ 17 1528 DL, thọ bảy mươi sáu tuổi. Những tác phẩm văn chương của Ngài cũng còn truyền ở đời. Ngài nổi tiếng vùng Giang Đông nên được phong làm tăng chủ mười thành. Thánh chỉ vừa ban hành Ngài chưa tiếp kiến thì đã thác hóa. Tăng Ni vùng ấy vô cùng kính tiếc, lưu luyến đức độ của Ngài. Ngài Đàm Phỉ ở Chùa Nam Nham trong huyện đó có Sa Môn Pháp Tạng cũng là người giới đức trong sạch. Rất thích phóng sanh, cứu mạng, xây dựng Chùa Chiền, họa vẽ tượng Phật. Thời đó ở Du Diêu Huyện có Tỳ Kheo Minh Khánh cũng nổi tiếng đồng thời với Ngài Đàm Phỉ. Ngài Minh Khánh là người họ Tịnh, giới hạnh nghiêm mật thanh khiết, học vấn ưu tú, thờ Ngài Viêm làm bổn sư, còn làm đệ tử của Hoằng Thật. Thầy trò ba đời đều được xem trọng ở Đông Nam. Luận nói: Luận về lý cùng tột thì vô ngôn, sâu mầu vắng lặng. Vì sâu lặng nên tâm hành xứ đoạn. Vì vô ngôn nên bặt đường ngôn ngữ. Bặt đường ngôn ngữ thì có ngôn ngữ tổn thương ý chỉ của nó. Tâm hành xứ đoạn thì tác ý mất đi sự chân thật của nó. Cho nên Tịnh Danh im lặng ở phương trượng. Thích ca mặc niệm nơi sa la. Điều đó đủ biết lý cùng tột đến chỗ sâu lắng vắng bặt. Cho nên gọi là vô ngôn. Chỉ vì bồng bềnh trong cảnh mộng thì cách xa lý này, bọn ngu xuẩn không giáo huấn thì làm sao khải sáng. Vì thế thánh nhơn chuẩn bị linh diệu để ứng vật. Thể hội cái lắng bặt sâu mầu để thông thần. Mượn lời mầu để trợ đạo, vay hình tướng để truyền chân. Cho nên nói: Binh khí là vật bất tường, không được dùng nó một cách tùy tiện. Lời lẽ là thứ bất chơn không được nói năng một cách vô ích. Cho nên ban đầu từ Lộc Uyển lấy Tứ đế làm lời đầu tiên. Rốt cùng đến vườn hộc lấy ba điểm làm viên cực. Trong khoảng thời gian chặn giữa nói ra những văn cú hơn tám ức. Voi chở không hết. Long cung chật mà không hết. Điều đó giống như theo dấu mà được thỏ. Nhờ ngón tay mà thấy mặt trăng. Biết được trăng thì dẹp ngón tay, được thỏ thì quên dấu. Kinh nói: Y nghĩa không y theo lời nói. Đây là ý này vậy. Mà kẻ trệ nơi giáo cho rằng đạo nằm trọn trong thiên chương. Kẻ chấp tướng cho rằng pháp thân được định bởi trượng sáu. Cho nên phải thông đạt ý chỉ sâu mầu, diệu đắc ngoài lời. Tứ biện trang nghiêm vì người nói cặn kẽ. Thị biện giáo thuyết làm lợi ích là trách nhiệm của Pháp Sư. Cho nên Chu Sĩ Hành tìm Kinh ở Vu Điền, thệ nguyện là diệt hỏa. Rốt cuộc khiến cho Bát nhã thịnh hành ở Đông Xuyên. Tư tưởng vong tướng được truyền đến đời Tú mạt. Viên Thứ, Trúc Tiềm, Chi Độn, Vu Lan, Pháp Khai v.v… đều là người tính khí phóng khoáng, phong cách nho nhã. Công lao truyền hóa cũng đã khép lại. Vào thời kỳ giữa thời có Thích Đạo An, cầu học ở Thánh sư Trúc Phật Đồ Trừng. Ngài lại truyền nghiệp cho đệ tử Tuệ Viễn. Giá như ba dòng này lưu truyền ở đời thì không thiếu thánh hiền, bởi các vị đều là bậc thầy giới đức tinh nghiêm, trí tuệ ngời sáng. Khiến cho mặt trời trí tuệ chói lọi hơn, ngàn năm nay tỏa hương khắp chốn, lại huân ướp cõi diêm phù, mạch suối vẫn trào tuôn, thực phải nương cậy người ấy. Ngài Tuệ Viễn đã ngăn ranh ở Hổ Khê. Đạo An lại đổi càng xe. Luận về bậc có đạo hạnh cao thượng như làm điều ngược lại. Vậy thì nói, nín, động, tĩnh tùy thời thích ứng. Kinh nói: Nếu muốn kiến lập chánh pháp thì phải thân cận quốc vương và cầm cương. Đạo An tuy nhứt thời cùng xa giá nhưng để khuyên can dùm bách dân. Cho nên có thể toàn cảm thì ứng chơn, vạch mây hiển báo. Từ đó về sau bậc trứ danh ở Kinh Hiệp thì Dực, Ngộ là nói đến trước tiên, bậc thanh cao trong sạch ở Lô Sơn thì lấy Trì, Vĩnh làm hàng đầu. Dung, Hằng, Ảnh, Triệu là bậc đạo cao đức trọng ở Quan Trung. Sanh, Duệ, Sướng, Viễn, Lãnh là bậc có đạo nghiệp thật khả kính. Đàm, Độ, Tăng, Uyên trở thành bậc trác tuyệt ở Giang Tây. Siêu, Tấn, Tuệ, Cơ làm sáng lạn ở Triết Đông. Tuy những bậc này kế thừa làm hưng long Phật Pháp ở thế gian mà đạo thuật cũng huyền hội. Cho nên khiến cho thời tượng pháp hưng thạnh hơn năm trăm năm nữa. Công hiệu đã rạng ngời lại càng tỏa sáng hơn. Tán rằng: Di phong dằng dặc Kết sóng cuồn cuộn Chẳng phải Thích Triết Ai chấn chỉnh suy đồi Tiềm, An Tỷ Diệu Viễn Duệ liên hoàn Chỉnh đốn sự cong vạy Gột sạch bụi tà Tơ trắng đã nhuộm Biến hẳn phương này. |
Contact Information
Phone
|
Array |
Address | Array |