TS Đàm Vô Sấm

Personal Information

Danh Tánh
TS Đàm Vô Sấm
Gender ♂️ Male

Hành Trạng

Additional Info

Ðàm Vô Sấm hoặc gọi là Ðàm Ma Sấm hoặc gọi là Ðàm Vô Sấm. Bởi theo Phạm âm không đồng. Ngài người nước Trung Thiên-trúc. Sáu tuổi đã mồ côi cha, theo mẹ đi dệt vải các nơi để sinh sống, gặp được ngài Ðạt-ma Da-xá (Pháp Minh) rất được chúng tăng kính trọng. Bà mẹ hâm mộ Ngài nên cho Vô Sấm theo làm đệ tử.

Năm mười tuổi Ngài cùng bạn đồng học tụng kinh chú rất là thông minh kiệt xuất. Tụng một ngày thuộc cả vạn lời của kinh Ðại thừa sơ học, kiêm cả các luận ngũ minh. Các việc giảng thuyết đối đáp Ngài cũng rất lưu loát. Sau gặp Bạch Ðầu Thiền sư, cùng luận nghị với Vô Sấm. Về học nghiệp đã khác, tranh luận được mười tuần ( một trăm ngày ) lời của Vô Sấm tuy sắt bén đúng lý mà Thiền sư không chịu thua. Vô Sấm rất bội phục tinh lý của Ngài, liền thưa:

- Thiền sư có kinh điển gì, có thể cho tôi xem chăng?

Thiền sư đem kinh Niết-bàn được viết trên vỏ cây cho Vô Sấm xem. Sấm đọc xong hổ thẹn, cho mình lâu nay mê mờ không biết đến pháp đạo Ðại thừa.

Từ đó Ngài vân tập đại chúng để cầu xin sám hối và phát nguyện chuyên học Ðại thừa. Ðến năm hai mươi tuổi Ngài tụng thuộc hơn hai trăm vạn chữ các kinh đại, tiểu thừa.

Ngài có người anh chuyên huấn luyện voi cho vua. Một hôm con voi tai trắng của vua bị chết, vua nổi giận hạ lệnh giết chết, rồi ra chiếu chỉ:

- Ai dám nhìn sẽ tru di tam tộc.

Thân tộc không ai dám đến, chỉ có ngài Vô Sấm khóc đem nhặt thi thể về táng. Vua giận định giết, Ngài nói:

- Vua đem pháp lệnh mà giết anh tôi. Tôi theo mối quan hệ cốt nhục mà đem táng. Hành động đều không trái với đại nghĩa đâu có gì sai trái mà phải bực tức.

Thấy tâm chí thanh cao của Ngài, vua tha tội chết và lưu lại cung cúng dường. Ngài rất thông thạo chú thuật, thường hiển bày năng lực thần dị rất linh nghiệm. Người Tây Vực gọi Ngài là “Ðại Chú sư”.

Một lần Ngài theo vua vào núi, vua khát nước sai người tìm mà không được. Ngài bèn tụng chú vào tảng đá làm nước vọt ra. Nhơn đó Ngài tán thán:

- Do ân đức của đại vương mà cảm đến hòn đá phun ra nước.

Các nước lân bang nghe chuyện đều khen ngợi công đức của vua. Lúc này mưa tuôn xuống khắp nơi làm cho dân chúng mừng vui ca tụng. Vua thấy đạo thuật của Ngài càng thêm ân sủng. Không bao lâu vua lại hậu bạc. Thấy vậy Ngài cáo từ đi đến Kế Tân, mang theo kinh Ðại Niết-bàn gồm mười quyển và kinh Bồ-tát Giới v. v… nước này đều học theo Tiểu thừa, không tin Niết-bàn. Ngài lại đi đến nước Quy Tư, sau đó lại đến Cô Tạng. Khi nghỉ tại một quán xá, sợ kinh bị thất lạc Ngài bỏ vào gối nằm. Khi ngủ Ngài thấy dường như có người xô xuống đất. Ngài kinh hãi tỉnh dậy cho là có trộm. Như thế trong ba đêm, ngài nghe trên hư không có tiếng nói:

- Ðây là pháp tạng giải thoát của Như Lai, sao lại nằm trên đó.

Nghe vậy, Ngài tỉnh ngộ sám hối cung kính đem để kinh trên cao. Đêm đó có ăn trộm đến định lấy kinh điển nhưng nặng quá không khiêng nổi. Sáng hôm sau tỉnh dậy, Ngài mang kinh rời khỏi nơi đó. Thấy Ngài ung dung mang kinh, bọn trộm thấy vậy thì sửng sốt, cho Ngài là thánh nhơn, chạy đến lạy tạ.

Lúc này, Hà Tây vương Mông Tốn cát cứ vùng Ðôn Hoàng tự xưng là vua. Nghe danh ngài Vô Sấm thì mời đến tham kiến, tiếp đãi nồng hậu. Mông Tốn vốn tin phụng Phật pháp có chí muốn hoằng hóa, nên thỉnh Ngài dịch kinh. Nhưng Ngài chưa thông Hán ngữ nên không thể dịch. Thế là Ngài ở lại học tiếng Hán ba năm rồi mới phiên dịch phần đầu mười quyển.

Bấy giờ có Sa-môn Tuệ Cao, Ðạo Lãng đến Hà Tây, gặp lúc Ngài đang dịch kinh nên cùng ở lại. Ngài dịch Phạm văn. Cao ghi chép. Hàng tăng tục mấy trăm người còn nghi ngờ chưa tỏ. Ngài Vô Sấm bèn giải thích rõ ràng khúc chiết văn chương dồi dào, ý tứ cũng miên mật. Hai vị Cao, Lãng lại thỉnh Ngài dịch rộng các kinh. Kế đến dịch các bộ Ðại Tập, Ðại Vân, Bi Hoa, Ðịa Trì, Ưu-bà-tắc Giới, Kim Quang Minh, Hải Long Vương, Bồ-tát Giới v. v… hơn sáu mươi vạn từ.

Do vì Niết-bàn bổn phẩm số chưa đầy đủ nên trở về nước tìm, gặp lúc mẹ mất nên lưu lại cả năm. Sau đến Vu Ðiền tìm được phần trung kinh thì trở về Cô Tạng dịch tiếp. Rồi lại trở lại Vu Ðiền tìm được phần sau bộ kinh, Ngài tiếp tục dịch ba mươi ba quyển, dịch từ năm thứ ba Huyền Thỉ cho đến ngày 23 tháng 10 năm Huyền Thỉ thứ mười thì xong. Tức là năm Vĩnh Sơ thứ hai đời Tống Vũ Ðế. Ngài nói:

- Kinh này theo Phạm bổn thì ba vạn năm ngàn bài kệ, ở đây còn thiếu trăm vạn lời, nay chỉ nói ra hơn một vạn bài kệ.

Ngài cũng thường bảo với Mông Tốn:

- Có quỷ vào tụ lạc1hoàng cung, ắt sẽ có nhiều tai hoạ.

Tốn không tin, muốn thấy tận mắt, Ngài liền tụng chú gia trì, khiến cho quỷ hiện ra. Tốn nhìn thấy rất kinh hãi.

Ngài nói:

- Nên thành tâm chuyên trì trai giới rồi tụng thần chú thì quỷ mới bỏ đi.

Rồi Ngài tụng chú trong ba ngày rồi bảo với Mông Tốn:

- Quỷ đã đi

Mông Tốn càng thêm kính phục Ngài. Từ đó trong nước được bình an. Ðến năm Thừa Huyền thứ hai2Năm 429, Mông Tốn vượt sông Hoàng Hà chinh phạt nước Khất Phật Mộ Mạt. Có thái tử Hưng Quốc đi tiền phong nhưng bị đánh bại, Hưng Quốc bị bắt. Sau Khất Ðột thất thủ. Mộ Mạt cùng Hưng Quốc liên tục hiển hách, sau bị Thổ Cốc Hồn phá vỡ. Thái tử Hưng Quốc bị loạn quân giết. Mông Tốn giận dữ cho là phụng sự Phật pháp không có linh ứng. Từ đó bắt những Sa-môn dưới năm mươi tuổi phải hoàn tục.

Mông Tốn trước kia có cho xây tượng của mẹ cao một trượng sáu bằng đá. Khi Mông Tốn ra lịnh như vậy thì tượng đá chợt rơi nước mắt. Vô Sấm lại dùng lời khuyên can, Mông Tốn từ từ cải tâm sám hối, bãi bỏ lệnh trên. Vì vậy Phật pháp nơi đây lại phát triển lại.

Thác Bạt Ðảo ở Bắc Ngụy3(tức Thái Võ Đế, 424-451), nghe Ngài có đạo thuật nên cho sứ sang cung thỉnh Ngài, bảo Mông Tốn:

- Nếu không cho thỉnh ngài Vô Sấm sẽ khởi binh đánh.

Nhưng Mông Tốn không nỡ lòng để Ngài đi. Bắc Ngụy lại sai Bình công Lý Thuận mang lễ vật sang cầu xin Mông Tốn cho thỉnh Ngài và sắc cho Tốn làm sứ cầm tiết, thị trung đô đốc lương châu, Tây vức, thái truyền phiêu kỵ đại tướng quân coi việc quân, Mục Lương vương của Lương châu, lại thêm lễ cửu tích và lệnh cho Tốn rằng:

- Nghe đây có Pháp sư Ðàm Vô Sấm, là bực bác thông đa thức như ngài La-thập, lại giỏi về bí chú thần nghiệm như trừng công. Trẫm muốn thỉnh Ngài về bổn quốc để thuyết giảng Phật pháp, xin hãy thuận lòng.

Mông Tốn bày yến tiệc đãi sứ giả và nói:

- Lão thần Tây Phiên Mông Tốn phụng sự triều đình Bắc Ngụy không dám trái nghịch, mà Thiên tử lại tin lời người nên đến bức bách tôi. Trước đã sai quan đến cầu ngài Vô Sấm, nay lại sai sứ sang nữa. Ngài Vô Sấm là bực tôn sư nên chúng tôi cùng sống chết. Ðời người sống chết như thế nào biết được bao lâu.

Lý Thuận nói:

- Vua tôi sai đem phẩm vật sang dâng tặng, là đã quý trọng quốc thể lắm. Sao ngài vì một vị tăng Thiên trúc này mà bỏ đi công nghiệp bấy lâu sao?. Chúa Thượng nên suy nghĩ kỹ. Vua tôi thật chí thành thật ý.

Mông Tốn nói:

- Lời của ông xảo diệu chẳng khác nào như Tô Tần, chẳng phải là lời chân thật vậy.

Mông Tốn vì tiếc ngài Vô Sấm nên quyết không cho đi. Ðến tháng 3 năm Nghĩa Hoà thứ ba, Ngài muốn trở về Tây Vực để thỉnh phần cuối kinh Niết-bàn. Mông Tốn giận Ngài muốn bỏ đi, bèn mật sai người ám sát. Khi sắp đi Ngài rơi lệ từ biệt chúng:

- Nay nghiệp ta sắp đến, dù Thánh nhơn cũng không cứu được, nhưng vì bổn nguyện nên không thể ở lại.

Mông Tốn quả sai thích khách giết Ngài ở dọc đường. Ngài thọ bốn mươi chín tuổi, tức vào năm Nguyên Gia thứ mười.

Tin tức lan truyền, ai cũng đều thương xót. Sau này các quan tả hữu đều thấy giữa ban ngày quỷ mang gươm đến đâm Tốn. Ðến tháng 4 thì Mông Tốn bị bệnh chết.

Lúc Ngài mới đến Cô Tạng có Sa-môn Ðạo Tấn ở Trường Tịch, muốn theo Ngài thọ Bồ tát giới. Ngài bảo:

- Hãy sám hối bảy ngày bảy đêm,

Đến ngày thứ tám, Ðạo Tấn đến cầu thọ giới. Vô Sấm nổi giận. Ðạo Tấn suy nghĩ:

- Chắc tại ta nghiệp chướng chưa tiêu vậy.

Ðạo Tấn lại dốc toàn tâm lực chuyên tinh Thiền định suốt ba năm liền, vừa Thiền vừa sám hối. Một đêm Ðạo Tấn mơ thấy Phật Thích-ca cùng chư Bồ-tát đến ban cho giới pháp. Ðêm đó có khoảng mười vị đều cảm mộng như vậy. Hôm sau lại đến ngài Vô Sấm cầu thọ giới. Thấy Ðạo Tấn từ xa, Ngài nói:

- Lành thay! lành thay! ông đã cảm được giới rồi. Hôm nay ta sẽ tắc chứng cho ông. Ở trước bàn Phật, Ngài lần lượt thuyết giới tướng.

Lại có Sa-môn Ðạo Lãng, đêm hôm Ðạo Tấn nằm mộng, Lãng cũng mộng như vậy. Vì tự ty giới lạp nên cầu làm pháp đệ của Ðạo Tấn. Thế là có một ngàn vị cùng với Ðạo Tấn có hơn một ngàn người theo Ngài thọ giới, pháp này truyền thọ cho đến ngày nay đều từ ngài Vô Sấm mà ra. Có lời biệt ký ghi rằng: kinh Bồ-tát Ðịa Trì do ngài y-bà truyền đến đây. Sau quả do ngài Vô Sấm truyền dịch, nên có người cho Ngài không phải là phàm.

Mông Tốn có người em tên An Dương hầu là người có chí mạnh mẽ. Ông tụng đọc nhiều kinh điển, và giữ năm giới cẩn mật. Khi Ngài Vô Sấm vào Hà Tây xiển dương Phật pháp, An Dương bèn xem kinh điển thọ năm giới. Thuở nhỏ Ngài cầu pháp với Sa-môn Thiên Trúc là Phật-đà Tư-na ở chùa Cù-ma-đế tại nước Vu Ðiền. Tư-na vốn học Ðại thừa, có thiên tài tú phát thông cả nửa ức bài kệ, lại thông suốt Thiền pháp, cho nên các nước Tây phương gọi Ngài là Nhơn trung Sư tử. An Dương theo Ngài học Thiền bí yếu trị bịnh kinh. Sau này Ngài đến Cao Xương thỉnh được kinh Quán Âm và Di-lặc rồi trở về Hà Tây dịch bộ thiền yếu ra Tấn ngữ. Rồi khi nhà Ngụy đánh chiếm Tây Lương, ông lánh nạn sang Giang Nam và không giao tiếp với ai, chỉ tham quan các cảnh chùa chiền tự tháp.

Ðầu tiên ông dịch hai bộ kinh Quan Âm và Di-lặc. Sau sư cô Tuệ Tuấn ở chùa Trúc Viên lại thỉnh Ngài dịch Thiền kinh- An Dương thông cả Hán lẫn Phạm nên dịch kinh rất trôi chảy. Trong bảy ngày dịch ra năm quyển- không bao lâu lại đến chùa Ðịnh Lâm ở Chung Sơn dịch kinh Phật phụ Bát-nê-hoàn kinh một quyển. An Dương cự tuyệt chuyện thê tử nô bộc, không muốn điều danh lợi, theo các pháp lữ tuyên thông chánh pháp, nên người người đều cảm kích. Sau bị bịnh rồi mất.

Ngài Vô Sấm dịch ra các bộ kinh đến niên hiệu Nguyên Gia mới truyền đến Ðạo Tràng, Kiến Nghiệp. Pháp sư Tuệ Quán chỉ muốn tìm phần cuối bộ kinh Niết-bàn, bèn tâu với Tống Thái Tổ tư cấp cho Sa-môn Ðạo Phổ cùng mười vị sang Tây Vực thỉnh kinh về. Khi thuyền đến Quảng quận, thuyền bị sóng, Ðạo Phổ bị thương nơi chân bị bịnh rồi mất. Lúc sắp lâm chung Ngài than:

- Ðất Tống không có duyên với kinh Niết-bàn phần sau.

Ðạo Phổ vốn người Cao Xương, đi sang Tây Vực và chu du các nước, cúng dường tôn ảnh đảnh lễ bát Phật, hình tượng dấu chân, tứ tháp đạo thọ, không đâu mà Ngài không chiêm ngưỡng. Ngài khéo về Phạm thư, giỏi ngôn ngữ nhiều nước, du hoá khắp nơi. Cuộc đời Ngài riêng có phần đại truyện. Bấy giờ ở Cao Xương lại có Sa môn Pháp Thạnh, cũng đến các xứ ngoại quốc lập truyện, gồm có bốn quyển lại có Trúc Pháp Duy, Thích Tăng Biểu đem kinh đến nước Phật…

Contact Information

Phone
Array
Address Array
This entry was posted in . Bookmark the permalink.