TS Đức Sơn Tuyên Giám

Personal Information

Danh Tánh
TS Đức Sơn Tuyên Giám
Gender ♂️ Male

Hành Trạng

Additional Info

THIỀN SƯ ĐỨC SƠN TUYÊN GIÁM LÃNG CHÂU

PHÁP TỰ ĐỜI THỨ TƯ của THANH NGUYÊN HÀNH TƯ

PHÁP TỰ của THIỀN SƯ LONG ĐÀM SÙNG TÍN

Thiền sư Tuyên Giám ở Đức Sơn Đảnh Châu (nay là Thường Đức Hồ Nam) là người Kiếm Nam (nay là Thành Đô Tứ Xuyên), họ Chu. Sư từ lúc tóc còn để chỏm đã xuất gia và đúng tuổi (20) thọ giới cụ túc. Sư nghiên cứu tinh mật luật tạng, thông suốt thú hướng tánh tướng các kinh, thường giảng kinh Kim Cang Bát Nhã, nên người đương thời gọi sư là ‘Chu Kim Cang’, về sau, nghiên tầm Thiền tông, thường nói với bạn đồng học:

- Sợi lông nuốt biển cả, tánh biển không vơi, hột cải ném đầu mũi gươm, mũi gươm bén chẳng dao động. Học cùng chẳng học, chỉ ta biết thôi.

Nhân đó sư đến Long Đàm tham yết Thiền sư Sùng Tín.

Hỏi đáp chỉ một lời thôi, sư liền giã từ ra đi. Long Đàm giữ sư lại.

Một buổi tối, sư ngồi yên lặng bên ngoài thất. Long Đàm hỏi:

- Sao không về đi?

Sư nói:

- Trời tối quá.

Long Đàm bèn đốt đuốc đưa cho sư. Sư vừa định đón lấy thì Long Đàm thổi đuốc tắt phụt. Sư bèn lễ tạ (ngộ).

Long Đàm nói:

- Thấy cái gì?

Sư nói:

- Từ nay về sau không dám hoài nghi miệng lưỡi của các lão Hòa thượng trong thiên hạ.

Sáng hôm sau, sư liền ra đi. Long Đàm nói với môn đồ:

- Có một gã răng như rừng gươm, miệng tợ chậu máu. Một gậy bổ chẳng quay đầu, sau này hắn sẽ lên đỉnh cô phong tuyên dương Thiền pháp của ta.

*

Sư đến Qui Sơn, từ phía Tây pháp đường đi qua Đông, rồi quay lại nhìn phương trượng. Qui Sơn im lặng chẳng ngó ngàng gì tới, sư liền nói:

- Chẳng có gì cả ! Chẳng có gì cả !

Rồi đi ra. Vừa ra tới phía trước tăng đường, sư lại nói:

- Tuy là như vậy, cũng không nên sơ sài quá !

Nói đoạn cụ bị oai nghi quay vào tham lễ. Vừa bước đến ngạch cửa liền đưa tọa cụ lên gọi to:

- Hòa thượng !

Qui Sơn định lấy cây xơ quất, sư liền hét to một tiếng, phất tay áo bước ra ngoài. Tối đó, Qui Sơn hỏi đại chúng:

- Ông tăng mới đến hôm nay đâu rồi?

Chúng nói:

- Tăng ấy tham kiên Hòa thượng xong, chẳng đến tăng đường mà đã đi ngay.

Qui Sơn hỏi chúng:

- Các ông có biết gã tăng ấy không?

Chúng đáp:

- Không biết.

Qui Sơn nói:

- Gã này về sau làm trụ trì sẽ mắng Phật chửi Tổ thôi !

*

Sư trụ Lễ Dương 30 năm, gặp thời kỳ Đường Vũ Tông diệt Phật, phải tị nạn trong nhà đá ở núi Độc Phù. Năm đầu niên hiệu Đại Trung, thứ sử Vũ Lăng là Tiết Diên Vọng trùng tu tinh xá Đức Sơn gọi là Thiền viện Cổ Đức, tìm cầu Thiền sư kiệt xuất làm trụ trì. Nghe đạo hạnh của sư, mời thỉnh nhiều lần nhưng sư không chịu xuống núi. Diên Vọng bèn bày kế gian, sai thuộc lại mượn cớ khám trà muối vu cáo sư phạm phép cấm, bắt về châu quận chiêm lễ, rồi kiên thỉnh sư trụ trì, đại xiển dương Tông phong.

Sư thượng đường nói:

- Các vị bình thường vô sự, thì đừng vọng cầu, bởi do vọng cầu mà được, thì cũng không phải là được thật. Các vị cứ vô sự ở tâm, vô tâm ở sự, tức hư mà linh, không mà diệu. Nếu như có nửa câu lời lẽ, đấy là tự dối mình, chỉ cần khởi hệ niệm nhỏ bằng đầu sợi lông thì liền đọa tam đồ nguy hiểm. Chỉ cần mê tình trong thoáng chốc, liền khiến tâm linh chư vị bị cùm trói muôn kiếp. Cái gì là Thánh, cái gì là phàm, rốt lại chỉ là hư giả mà thôi. Cái gì là tướng, cái gì là hình, tất cả chỉ là không ảo. Các vị nghĩ có điều mong cầu mà chẳng bị trói buộc, được chăng nè? Đương khi các vị lo trấn áp trói buộc thì lại thành họa lớn, rốt lại chẳng ích chi !

*

Sư thượng đường nói:

- Đêm nay không được hỏi han, kẻ nào hỏi han bị bổ 30 gậy.

Lúc đó, có một ông tăng bước ra lễ bái, sư bèn đánh ông ta.

Ông tăng ấy nói:

- Con còn chưa có hỏi lời nào, sao Hòa thượng lại đánh con?

Sư hỏi:

- Ông là người nơi nào?

Tăng ấy đáp:

- Là người Tân La (Triều Tiên).

Sư nói:

- Ngay khi ông xuống thuyền đi đến đây là đáng ăn 30 gậy rồi!

*

Long Nha hỏi:

- Kẻ học trò này cầm kiếm Mạc Da đến lấy đầu Hòa thượng thì Hòa thượng biện biệt thế nào?

Sư đưa đầu chịu chém, Long Nha nói:

- Đầu rơi rồi.

Sư mỉm cười, về sau, Long Nha đem chuyện này kể lại cho Động Sơn nghe. Động Sơn hỏi:

- Đức Sơn nói cái gì?

Long Nha đáp:

- Không nói gì cả.

Động Sơn nói:

- Ông không cần nói Đức Sơn không có lời gì mà hãy mang chiếc đầu rơi của va đến đây cho lão tăng xem !

Long Nha bèn tĩnh ra là đã lỡ lời, hổ thẹn sám hối tội lỗi không thôi ! Về sau có người đem sự việc Long Nha và Động Sơn nói lại với Đức Sơn, sư nói:

- Lão nhân Động Sơn không hiểu nên hư gì cả, gã Long Nha đã chết hồi nào rồi mà, cứu hắn làm gì cho mệt ?

*

Có ông tăng hỏi:

- Thế nào là Bồ-đề?

Sư liền đánh ông ta, nói:

- Đi ngay, đừng có ở nơi đây mà tiêu tiểu !

*

Lại có tăng hỏi:

- Thế nào là Phật?

Sư nói:

- Phật là lão tỉ-kheo ở Tây Thiên.

*

Tuyết Phong hỏi:

- Từ xưa tới nay, Tông phong Thiền tông, dùng pháp môn gì để khai thị kẻ học?

Sư đáp:

- Thiền tông của ta từ trước giờ không hề có ngữ cú, ngôn giáo, không hề có một pháp nào để dạy người.

Nham Đầu nghe nói sau đó bảo:

- Lão nhân Đức Sơn xương sống cứng như thép bẻ không gãy tuy nhiên dẫu là như vậy, trong Giáo môn Đại thừa, vẫn còn có chỗ thiếu sót.

*

Thiền sư Đức Sơn thường mỗi khi gặp tăng nhân mới đến tham lễ đều dùng gậy đánh, Lâm Tế sau đó nghe được, sai thị giả đến tham yết Đức Sơn và dặn:

- Nếu bị Đức Sơn đánh thì giựt lấy gậy và nhắm ngay ngực ông ta nện trả lại một gậy.

Thị giả đến vừa toan lễ bái liền bị sư đánh. Y theo lời Lâm Tế dặn, thị giả giựt gậy nện ngay ngực sư một đòn, sư bèn quay về phương trượng. Thị giả quay về đem tự sự báo lại Lâm Tế, Lâm Tế nói:

- Ta trước đây nghi gã ấy.

*

Sư thượng đường nói:

- Hỏi thì không phải, mà không hỏi thì không đúng.

Có ông tăng bước ra lễ bái, sư liền đánh. Ông tăng hỏi:

- Con vừa lễ bái, Hòa thượng vì sao lại đánh con?

Sư đáp:

- Đợi ông mở miệng hỏi thì muộn mất rồi !

*

Sư bảo thị giả gọi Nghĩa Tồn. Tồn đến, Sư nói:

- Ta gọi Nghĩa Tồn, ông lại đến để làm gì?

*

Sư thấy ông tăng đến bèn đóng chặt cửa. Ông tăng ấy gõ cửa. Sư hỏi:

- Ai đó?

Tăng đáp:

- Sư tử con.

Sư liền mở cửa. Tăng lễ bái, sư bèn nhảy phóc lên cổ nói:

- Con súc sanh này từ đâu lại đây?

*

Tuyết Phong hỏi:

- Người xưa chém mèo, chỉ ý như thế nào?

Sư liền đánh đuổi ra, rồi lại gọi lại hỏi:

- Lãnh hội không?

Tuyết Phong nói:

- Không lãnh hội.

Sư nói:

- Ta đã đem hết tâm cơ ra dạy dỗ mà cũng không lãnh hội.

*

Tăng hỏi:

- Phàm Thánh cách nhau bao xa?

Sư liền hét.

Sư bị ốm, có ông tăng hỏi:

- Còn có không bịnh nữa không?

Sư nói:

- Có chứ.

Tăng hỏi:

- Thế nào là người không bịnh?

Sư hỏi:

- Ai vậy? Ai vậy?

Sư nói với môn đồ:

- Mò không đuổi tiếng, chỉ tổ mệt nhọc tâm thần. Mộng lớn tỉnh rồi, muôn sự đều không.

Nói xong an nhiên viên tịch, lúc đó nhằm niên hiệu Đường Hàm Thông năm thứ sáu (865), ngày mùng 3 tháng 12 năm Ất Dậu, thế thọ 86 tăng lạp 63, sắc thụy Kiến Tánh Đại Sư.

Phần phụ lục:

Về sau, nghe phương Nam Thiền pháp khá long thạnh. Sư bất bình nói:

- Người xuất gia học tập lâu dài lễ nghi, oai biểu của Phật, tôn thủ biết bao giới luật, vậy mà còn chưa thành Phật, bọn ma ranh ở phương Nam lại dám nói trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật. Ta sẽ ruồng nát hang ổ chúng, tiêu diệt hết dòng giống chúng để báo đáp ơn Phật.

Rồi đó sư quảy bộ ‘Thanh Long sớ sao’ (1) rời khỏi Tứ Xuyên.

Chú (1): Là bản sao bộ sách chú giải kinh Kim Cang do Hòa thượng Đạo Nhân chùa Thanh Long vâng lệnh vua Đường Huyền Tông soạn thành.

Khi đến Lễ Dương, trên đường sư gặp một bà lão bán bánh bèn để gánh sách xuống mua bánh ăn điểm tâm. Bà lão chỉ gánh hỏi:

- Đó là kinh sách gì vậy?

Sư đáp:

- Kinh Kim Cang.

Bà lão nói:

- Già đây có một câu hỏi, nếu sư đối đáp được thì xin cúng dường buổi điểm tâm, còn nếu đáp không được thì đi chỗ khác cho rảnh ! trong kinh Kim cang có nói : ‘Tâm đã qua không thể đắc, tâm hiện tại không thể đắc, tâm vị lai không thể đắc’, dám hỏi thượng tọa người điểm tâm nào ?

Sư cứng họng không thể đáp.

(Theo Ngũ Đăng Hội Nguyên quyển 7)

*

Tuyết Phong hỏi:

- Giáo nghĩa của Tông môn từ trước, kẻ học trò này có thể liễu giải không?

Sư liền đánh Tuyết Phong một gậy hỏi:

- Nói cái gì?

Tuyết Phong nói:

- Con không lãnh hội.

Đến hôm sau, Tuyết Phong lại hỏi nữa, sư nói:

- Tông môn của ta không có ngữ cú, thật ra không có bất cứ pháp nào dạy người.

Tuyết Phong nhân đó có phần tỉnh ngộ.

(Theo Ngũ Đăng Hội Nguyên quyển 7)

---o0o---

Ghi Chú:

LỜI DỊCH GIẢ ( Thiền Sư Trung Hoa - T2 - HT Thanh Từ Dịch )

Chúng tôi cố tránh né không dám lạm bàn những ngôn ngữ và hành động của chư Thiền đức. Bởi lẽ không muốn độc giả nhai lại những bã xác mía khô, để mỗi độc giả tự thưởng thức vị cam lồ của chính mình phát minh.
Nhưng, qua ngôn ngữ của ngài Đức Sơn, nếu chúng tôi không bàn e có nhiều độc giả hiểu lệch lạc, khiến bản nguyện của chúng tôi không đạt được, mà có thể trái lại là khác. Do đó, chúng tôi có ít lời bình như sau:
Đức Sơn là một ngôi sao sáng trong Thiền môn vào thời Đường mạt. Những Thiền sinh đến tham vấn đa số được Ngài cho ăn gậy. Mỗi khi thượng đường dạy chúng, Ngài thường dùng những ngôn ngữ táo bạo, mà người ta gọi là “mắng Phật mạ Tổ”.
Vì sao Đức Sơn có hành động ngôn ngữ ấy? Bởi lẽ, Ngài quá NHIỆT TÌNH, nói theo danh từ nhà Thiền có “tâm lão bà”. Chúng ta thấy, khi Ngài cất gánh kinh lên vai sang phương Nam, không vì tìm hiểu thiền, mà cốt “tiêu diệt chúng ma quái (Thiền tông) để báo ân Phật”. Tâm niệm ấy, đã nói lên Ngài là sứ giả của Luật, Giáo. Luật, Giáo là lý tưởng tối thượng đời Ngài phải phụng thờ. Như vậy, Ngài sang phương Nam với NHIỆT TÌNH hộ pháp “tồi tà phụ chánh” (dẹp tà giúp chánh).
Sau khi gặp Long Đàm, lý tưởng tối thượng của Ngài tôn thờ đã trở thành hình ảnh chết, là cặn bã của người xưa. Chí nguyện “tồi tà phụ chánh” của Ngài đã tan biến như mây khói, hay ngược lại chính Ngài tự thấy mình là nguời “phụ tà tồi chánh” (giúp tà dẹp chánh). Đột biến bất thần ấy, khiến Ngài mang gánh kinh ra trước pháp đường thiêu sạch.
Có ngồi nhà giam mới biết thương những người bị giam, đó là NHIỆT TÌNH của Đức Sơn qua giai đoạn hai.
Thiền, Đạo là cái linh minh hiện hữu nơi mình. Song vừa khởi tâm tìm nó liền mất, mong thấy nó đã chẳng hiện. Nó không phải những văn tự khô cằn, cũng không phải ngôn ngữ sanh diệt. Bám vào văn tự, vào ngôn ngữ để cầu Thiền cầu Đạo thật là đại sai lầm. Bỏ mình đi cầu Thiền cầu Đạo nơi người, thật là việc “cỡi trâu tìm trâu”, “bính đinh cầu hỏa”.
Nhưng, nhà giam văn tự ngôn ngữ, dây xiềng cầu cạnh bên ngoài đã và đang giam giữ xiềng xích bao nhiêu người có thiện chí học đạo. Do đó, với NHIỆT TÌNH của Đức Sơn phải đập tan nó bằng gậy, mạt sát chúng bằng lời, hầu mong cổi trói cho mọi người. Đúng như lời bình của Vân Môn sau này “chỉ có Đức Sơn mới hay khen ngợi Phật, Tổ”.
Phật, Tổ cố lập mọi phương tiện để phá chấp cho chúng ta. Chúng ta không mượn phương tiện ấy để gột sạch vọng chấp của mình, trái lại bám lấy phương tiện cho là cứu kính, thật là tự lấy dây trói mình. Khi đã bị trói rồi, chạy cầu người khác mở trói. Đó là từ sai lầm này sang sai lầm khác, cả đời lẩn quẩn làm sao thoát được!
Ai đã có “tâm lão bà” trông thấy thế mà chẳng thương? Huống nữa Đức Sơn là một nạn nhân vừa thoát nạn, trông thấy bạn đồng hành của mình đang bị bao vây, làm sao không có những cái đánh tóe lửa, những lời mắng tét tai, lấy làm phương tiện cứu cấp.
Cho nên, đọc Đức Sơn, chúng ta đừng khó chịu bởi ngôn ngữ và hành động của Ngài, vì biết đó là phương tiện cấp bách, cũng đừng bắt chước ngôn ngữ ấy để phỉ báng Tam Bảo mà phải đọa địa ngục. Chúng ta cần phải học NHIỆT TÌNH của Đức Sơn, và cốt nhận ra chỗ chí yếu mà Ngài muốn chỉ dạy.

 

 

Contact Information

Phone
Array
Address Array
This entry was posted in . Bookmark the permalink.