TS Hà Trạch Thần Hội

Personal Information

Danh Tánh
TS Hà Trạch Thần Hội - Khai Tổ Hà Trạch Tông
Gender ♂️ Male

Hành Trạng

Additional Info

(荷 澤 神 會, Kataku Jinne, 684-760): Vị Thiền tăng sống dưới thời nhà Đường, vị tổ khai sáng Hà Trạch Tông (荷澤宗), người vùng Tương Dương (襄 陽, Hồ Bắc), họ Cao (高). Lúc nhỏ sư học Ngũ Kinh, Lão Trang, các sử thư, sau theo xuất gia với Cảnh Nguyên ở Quốc Xương Tự (國昌寺), đọc tụng thuộc các kinh điển rất dễ dàng. Năm lên 13 tuổi, sư đến Bảo Lâm tự ở Tào Khê, tham yết Lục tổ Huệ Năng (慧能).
Sư có công lớn trong việc thuyết phục triều đình nhà Ðường công nhận dòng thiền của Lục tổ là chính tông và Tổ là người thừa kế chính của Ngũ tổ Hoằng Nhẫn.
Sau khi Tổ Huệ Năng qua đời sư đi tham học khắp các nơi.
Trong những năm Đường Cảnh Long (707 - 710, vua Trung Tông), Sư lại về Tào Khê. Khoảng 20 năm sau khi Tổ nhập diệt, ý chỉ đốn ngộ của Tào Khê bị lãng quên ở Kinh, Ngô; tiệm môn của Tung Nhạc thạnh hành ở Tần, Lạc.
Vào năm thứ 8 (720) niên hiệu Khai Nguyên (開元), sư vâng chiếu đến trú trì Long Hưng Tự (龍興寺) ở Nam Dương (南陽) và cử xướng Thiền pháp rộng rãi tại đây, cho nên người đời thường gọi sư là Nam Dương Hòa Thượng (南陽和尚).
Lần đầu tiên khi đến Lạc Dương (洛 陽), sư đã có ý muốn chấn hưng Thiền phong của Lục Tổ, cho nên vào năm thứ 20 (732) niên hiệu Khai Nguyên, sư thiết lập đại hội ở Đại Vân Tự (大 雲 寺) thuộc Hoạt Đài (滑 臺), Hà Nam (河 南), cùng luận tranh với Sùng Viễn (崇 遠) ở Sơn Đông (山 東). Kế đến vào năm thứ 4 (745) niên hiệu Thiên Bảo (天寳), sư viết cuốn Hiển Tông Ký (顯 宗記), quy định ra 2 tông phái đốn và tiệm của Nam Bắc, lấy Huệ Năng ở phương Nam làm Đốn Tông và Thần Tú ở phía Bắc làm Tiệm Tông; cho nên từ “Nam Đốn Bắc Tiệm (南頓北漸)” vốn phát xuất từ đây.
Khoảng 20 năm sau khi Tổ nhập diệt, Sư hội họp tất cả những Thiền sư danh tiếng miền Nam, và tuyên rằng, Huệ Năng chính là người nối pháp của Ngũ tổ và Thần Tú – lúc bấy giờ được vương triều công nhận là pháp tự của Thiền tông – vô cớ đoạt danh hiệu này của Huệ Năng, không phải là người được truyền y bát.
Sư tận lực công kích pháp môn của Thần Tú, vì vậy Nam Tông Thiền càng ngày trở nên hưng thạnh và ngược lại Bắc Tông Thiền dần dần suy tàn.
Sư đưa ra hai lý do để tấn công phái Thần Tú. Lý do thứ nhất, sư tấn công về sự không chính thống của phái Thần Tú và mạnh mẽ cho rằng Huệ Năng mới là người truyền thừa y bát chính thống từ Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn. Dĩ nhiên cuộc tranh luận tự nói lên rằng sư chính là Thất Tổ của dòng Bồ Đề Đạt Ma. Lý do thứ nhì mà sư tấn công phái Thần Tú, sư cho rằng thiền phái của Thần Tú là “tiệm môn,” rất xa lạ với thiền phái “đốn ngộ” mà Lục Tổ Huệ Năng đã truyền lại.
Sư không nhọc công đi đến tận Trường An và Lạc Dương để nêu rõ và bảo vệ quan niệm này. Kết quả của việc làm mạo hiểm này là Sư bị lưu đày xuống miền Nam.
Năm thứ 12 niên hiệu Thiên Bảo (742-756 TL), nhân vụ trình tâu vu khống của vị quan Ngự Sử Lô Dịch (盧 奕) cùng môn đồ Thần Tú rằng: “Sư nhóm họp đồ chúng manh tâm làm phản”. Vua Huyền Tông mời Sư về kinh đô để tham vấn. Ra mắt Vua, Sư giải bày hợp lý, Vua rất hài lòng. Vua mời Sư dời về ở Quân Bộ. Sau Vua ra sắc lệnh đày Sư đến ở viện Bát-nhã chùa Khai Nguyên tại Kinh Châu. Sư rời khỏi Hà Trạch Tự (荷 澤 寺) vùng Lạc Dương, chuyển đến sống tại các địa phương như Dặc Dương (弋陽, Giang Tây), Võ Đương (武 當, Hồ Bắc), v.v. Đến năm sau, sư lại chuyển đến Tương Dương, rồi Bát Nhã Viện (般若院) của Khai Nguyên Tự (開元寺) vùng Kinh Châu (荆州).
Khi vụ loạn An Sử (安史,755-757) dấy khởi, cả 2 kinh đô đều rơi vào cảnh lầm than, triều đình nhớ lại danh tiếng của Sư, muốn nương danh này để lấy lại lòng tin của dân. Khắp nơi có thiết lập giới đàn độ chúng tăng, tập trung tiền của để sung vào quân nhu, cho nên người ta thỉnh sư làm chủ đàn.
Sau vụ loạn, vua Túc Tông mời sư vào cung nội cúng dường và cho xây dựng Thiền đường trong khuôn viên Hà Trạch Tự, thỉnh sư đến làm trú trì chùa nầy (trước khi bị lưu đày Sư đã trụ trì ở đây), cho nên người đời thường gọi sư là Hà Trạch Đại Sư (荷澤大師). Từ đây Sư rất có uy tín trong triều đình và cuối cùng Huệ Năng và các vị thừa kế được công nhận là Thiền chính tông. Sư hiển phát tông phong của Lục Tổ, đồ chúng tham học rất đông.
Vào năm đầu (760 - Đường Túc Tông) niên hiệu Thượng Nguyên (上元), ngày 13 tháng 5 vào nửa đêm sư thị tịch, hưởng thọ 93 tuổi. Có thuyết cho là sư mất vào năm đầu (758) niên hiệu Càn Nguyên (乾元). Năm thứ hai 761, xây tháp thờ ở Long Môn, Lạc Kinh. Ở tháp Sư vua Túc Tông sắc ban xây chùa Bảo Ứng.
Sư được ban cho thụy hiệu là Năm Đường Đại Lịch thứ năm (770 - Đường Đại Tông), vua ban hiệu Chơn Tông Bát Nhã Truyền Pháp Chi Đường, Chơn Tông Đại Sư (眞宗大師), Tháp của sư được đặt tại Long Môn. Năm thứ bảy 772, lại ban hiệu Bát Nhã Đại Sư Chi Tháp.
Vào năm thứ 12 (796) niên hiệu Trinh Nguyên (貞元), Hoàng Thái Tử cho triệu tập các vị Thiền sư, quy định tông chỉ của Thiền môn, suy cử sư là vị tổ thứ 7 của Thiền Tông, sắc phong bia đặt tại Thần Long Tự (神龍寺). Tông môn của sư được gọi là Hà Trạch Tông (荷澤宗). Môn hạ sư có rất nhiều đấng anh tài như Vô Danh (無名), Pháp Như (法如), v.v.Sự quan hệ với triều đình, và nói chung các người cầm quyền chính trị, không làm cho phái thiền Hà Trạch của Sư hưng thịnh mà ngược lại, chỉ sau vài đời tàn lụy. Kế thừa Sư, trong phái sau này chỉ có một vị còn được nhắc nhở đến, đó là Thiền sư Khuê Phong Tông Mật, nhưng vị này cũng không nổi danh với tính cách một vị Thiền sư mà là vị Tổ thứ năm của Hoa Nghiêm Tông.
Sư có viết cuốn Hiển Tông Ký (顯 宗記).
Học giả Hồ Thích sưu tập Thần Hội Ngữ Lục 3 quyển.

---o0o---

Công Án
Theo Kinh Pháp Bảo Đàn, chương tám, năm mười bốn tuổi là Sa-di ở chùa Ngọc Tuyền, Sư tìm đến yết kiến Lục tổ Huệ Năng.
Tổ hỏi:
- Tri thức từ phương xa nhọc nhằn tìm đến, có được gốc (Bản) theo chăng? Nếu có gốc phải biết chủ, thử nói xem?
Sư thưa:
- Lấy không trụ làm gốc, thấy tức là chủ.
Tổ bảo:
- Sa-di đâu nên dùng lời đó.
Sư thưa:
- Hòa thượng ngồi thiền là thấy hay chẳng thấy?
Tổ cầm gậy đánh Sư ba gậy, hỏi:
- Ta đánh ngươi đau hay chẳng đau?
- Cũng đau cũng chẳng đau.
- Ta cũng thấy cũng chẳng thấy.
- Thế nào là cũng thấy cũng chẳng thấy?
- Chỗ ta thấy là thường thấy lỗi lầm nơi tâm mình, không thấy việc phải quấy của người khác. Ấy là cũng thấy cũng chẳng thấy. Ngươi nói cũng đau cũng chẳng đau là sao? Nếu ngươi chẳng đau thì đồng cây cỏ, nếu ngươi đau thì đồng với phàm phu, ắt khởi tâm giận hờn. Trước ngươi nói thấy chẳng thấy là hai bên, đau chẳng đau là sanh diệt. Ngươi không thấy tự tánh mà dám cợt với người.
Sư lễ bái sám hối.
Tổ bảo:
- Nếu ngươi tâm mê không thấy nên hỏi thiện tri thức chỉ đường. Nếu ngươi tâm ngộ liền tự thấy tánh, y pháp tu hành. Ngươi đã mê không thấy tâm mình, trở lại hỏi ta thấy cùng chẳng thấy. Ta thấy thì ta tự biết, đâu thế cái mê cho ngươi được. Nếu ngươi tự thấy cũng không thế được cái mê cho ta. Tại sao không tự biết tự thấy, lại hỏi ta thấy cùng chẳng thấy?
Sư lễ bái hơn trăm lạy cầu xin sám hối.
Lúc ăn gậy, Sư suy nghĩ “Đại thiện tri thức trải qua nhiều kiếp khó gặp. Nay đã được gặp, há tiếc thân mạng này”. Từ đó Sư làm thị giả, ở lại hầu hạ Tổ không lúc nào rời.

*

Một hôm Tổ bảo đại chúng:
- Ta có một vật không đầu không đuôi, không tên không họ, không lưng không mặt, các ngươi biết chăng?
Sư bước ra thưa:
- Ấy là bản nguyên của chư Phật, là Phật tánh của Thần Hội.
Tổ bảo:
- Đã nói với các ngươi là không tên không họ, ngươi lại kêu là bản nguyên, Phật tánh. Ngươi lại đi lấy tranh che đầu, cũng chỉ thành tông đồ của hàng tri giải.
Thần Hội nói:
- Phật tánh không tên cũng không có sự diễn tả, nhưng vì Thầy hỏi nó là cái gì, thì tên và sự diễn tả đã được sử dụng. Tuy vậy, ngay khi dùng tên và được diễn tả đi nữa, thì Phật tánh vẫn vậy, vẫn không tên và không có sự diễn tả.
Tổ bèn đánh Thần Hội ba gậy. Đoạn, Tổ lại bảo tiếp:
- Nói gì thì nói, người trẻ tuổi này sau này nếu đứng đầu tự viện, đem đến cho tông môn nhiều đệ tử chứng ngộ.
Rồi Tổ cho phép chúng hội giải tán. Đến tối, Tổ cho gọi Thần Hội vào phương trượng và hỏi:
- Hôm nay ta đánh ông. Ông hay là Phật tánh cảm nhận cú đánh vậy?
Khi đối mặt với câu hỏi này thình lình Thần Hội đạt ngộ. Sư lễ bái rồi lui. Chẳng bao lâu Sư đi Tây Kinh thọ cụ túc giới.

*

Có sáu điều nghi trong tạng Kinh, Sư đem ra hỏi Lục Tổ:
- Giới định tuệ dùng như thế nào? Giới vật gì?. Định từ chỗ nào tu? . Tuệ nhân chỗ nào khởi?. Chỗ thấy của con chưa thông suốt.
Tổ đáp:
- Định là định tâm kia, đem giới để giới hạnh kia, trong tánh thường có tuệ chiếu, tự thấy tự biết sâu.
- Xưa không nay có, có vật gì?. Xưa có nay không, không vật gì?. Tụng kinh chẳng thấy nghĩa có không, thật giống người cỡi lừa lại tìm lừa.
- Niệm trước nghiệp ác xưa không, niệm sau thiện sanh nay có, niệm niệm thường làm hạnh lành, đời sau sanh người trời chẳng khó. Chính ngươi nay nghe ta nói, ta tức xưa không nay có.
- Đem sanh diệt dẹp diệt, đem diệt diệt dẹp sanh, không rõ nghĩa sanh diệt, chỗ thấy in mù điếc.
- Đem sanh diệt dẹp diệt, khiến người không chấp tánh. Đem diệt diệt dẹp sanh, khiến người tâm lìa cảnh. Nếu lìa được hai bên, tự trừ bệnh sanh diệt.
- Trước đốn mà sau tiệm, trước tiệm mà sau đốn, người không ngộ đốn tiệm, trong tâm thường mê muộn.
- Nghe pháp trong đốn mà tiệm, ngộ pháp trong tiệm mà đốn, tu hành trong đốn mà tiệm, chứng quả trong tiệm mà đốn. Đốn tiệm là nhân thường, trong ngộ không mê muộn.
- Trước định sau tuệ, trước tuệ sau định, định tuệ cái nào sanh trước cái nào sanh sau là đúng?
- Thường sanh tâm thanh tịnh, trong định mà có tuệ, ở trên cảnh mà không tâm, trong tuệ mà có định; định tuệ đồng không trước, tu cả hai tự tâm chánh.
- Trước Phật sau Pháp, trước Pháp sau Phật, nguồn gốc Phật Pháp từ đâu khởi?
- Nói, tức trước Phật sau Pháp, nghe tức trước Pháp sau Phật. Nếu luận nguồn gốc Phật Pháp, xuất phát trong tâm tất cả chúng sanh.

*

Theo Kinh Pháp Bảo Đàn, chương mười, vào niên hiệu Thái Cực năm Nhâm Tý, Diên Hòa tháng bảy (712 sau Tây Lịch), Lục Tổ sai đệ tử đến Tân Châu, chùa Quốc Ân dựng tháp và khiến thợ khởi công gấp, năm kế cuối mùa hạ lạc thành, ngày mồng một tháng bảy Tổ họp đồ chúng bảo rằng: “Tôi đến tháng tám muốn lìa thế gian, các ông có nghi phải hỏi nhau sớm, tôi vì các ông phá nghi khiến các ông dứt mê, nếu tôi đi rồi, sau không có người dạy các ông”. Ngài Pháp Hải và toàn hội chúng đều khóc dầm dề, chỉ có Thần Hội thần tình bất động, cũng không có. Tổ bảo:
- Thần Hội tiểu sư lại được thiện bất thiện cùng là đồng, khen chê chẳng động, vui buồn chẳng sanh, ngoài ra đều không được, ở trong núi mấy năm, cứu cánh tu đạo gì?. Nếu các ông buồn khóc là vì lo cho ai?. Nếu lo ta chẳng biết chỗ đi thì ta tự biết chỗ đi, nếu ta chẳng biết chỗ đi thì trọn không báo trước cho các ông, các ông buồn khóc bởi vì chẳng biết chỗ đi của ta, nếu biết chỗ đi của ta tức không nên buồn khóc. Pháp tánh vốn không sanh diệt đi lại, các ông ngồi đây ta sẽ vì các ông nói một bài kệ gọi là ‘Chơn Giả Động Tịnh” kệ. Các ông tụng bài nầy cùng với ta ý đồng, y đây mà tu hành thì không mất tông chỉ. Chúng Tăng đều làm lễ, Tổ nói kệ rằng:
Tất cả không có chơn, chẳng do thấy nơi chơn
Nếu thấy được cái chơn, thấy đó trọn không chơn.
Nếu hay tự có chơn, lìa giả tức tâm chơn.
Tự tâm không lìa giả, không chơn chỗ nào chơn.
Hữu tình tức biết động, vô tình tức không động.
Nếu tu hạnh bất động, đồng vô tình bất động.
Nếu tìm chơn bất động, trên động có bất động.
Bất động là bất động, vô tình không Phật tánh.
Hãy khéo phân biệt tướng, đệ nhất nghĩa bất động,
Chỉ khởi cái thấy nầy, là dụng của chơn như.
Bảo những người học đạo, gắng sức phải dụng tâm,
Chớ đối pháp Đại thừa, lại chấp trí sanh tử.
Nếu bàn luận tương ưng, liền cùng bàn nghĩa Phật,
Nếu thật không tương ưng, chấp tay khiến hoan hỷ.
Tông nầy vốn không tranh, tranh tức mất ý đạo,
Chấp nghịch tranh pháp môn, tự tánh vào sanh tử.
Sau Sư đi đến Tây kinh thọ giới cụ túc.

*

Sư dạy chúng:
- Phàm người học đạo phải đạt tột nguồn gốc của mình; hàng Tứ quả Tam hiền đều gọi là điều phục, Bích-chi, La-hán chưa dứt hoài nghi, Đẳng giác, Diệu giác liễu đạt tường tận. Giác có cạn sâu, giáo có đốn tiệm. Tiệm giáo trải kiếp A-tăng-kỳ vẫn còn luân hồi; đốn giáo chỉ khoảng co duỗi cánh tay liền lên Diệu giác. Nếu trước không giống đạo, luống học biết nhiều. Tất cả tại tâm, tà chánh do mình. Không nghĩ một vật tức là tâm mình, không phải chỗ biết của trí. Không có hạnh nào riêng để ngộ vào đây. Pháp Tam-ma-đề chân thật không có đi đến, dứt mé trước sau. Nếu biết vô niệm là Tối thượng thừa, rộng suốt trời xanh chóng mở kho báu. Tâm chẳng phải sanh diệt, tánh bặt đổi dời. Tự tịnh thì niệm cảnh không sanh, vô tác thì vin theo tự dứt.
Ngày xưa, ta đẩy chiếc xe bất thối, nay được định tuệ song tu, như bàn tay với cánh tay. Thấy thể vô niệm chẳng theo vật mà sanh, thường liễu ngộ Như Lai thì còn chỗ nào mà khởi. Nay huyễn chất này nguyên là thường chân, tự tánh như không, xưa nay không tướng. Đã đạt lý này thì còn gì sợ, gì buồn. Trời đất không thể đổi thể kia. Tâm về pháp giới, vạn tượng nhất như. Xa lìa suy tính, trí đồng pháp tánh. Ngàn kinh muôn luận chỉ nói rõ tâm. Đã chẳng lập tâm tức thể hội chân lý, hoàn toàn không sở đắc. Bảo các học chúng không tìm cầu bên ngoài, nếu là Tối thượng thừa cần phải vô tác. Trân trọng!

*

Có người hỏi Sư:
- Vô niệm thì pháp có, không chăng?
Sư đáp:
- Chẳng nói có không.
- Khi ấy thế nào?
- Cũng không khi ấy. Ví như gương sáng nếu không đối hình tượng trọn không thấy hình tượng, nếu thấy không vật mới là thấy gương thật.

*

Đệ tử Quang Bảo hỏi: Khi tai mắt duyên theo thanh sắc là đối lập hay là dung hợp?
Sư đáp: Đối lập và dung hợp hãy gác lại. Ông thử chỉ ra cái gì là thanh sắc.
Quang Bảo nói: Như Sư nói, nghĩa là không có thanh sắc?
Sư đáp: Nếu ông hiểu rõ thể của sắc thanh và các căn mắt tai… Nếu căn trần là không, phàm thánh như huyễn thì dung hợp hay đối kháng không còn ý nghĩa nữa.
Quang Bảo tức khắc lãnh ngộ, ngay ngày hôm đó liền đi, ở ẩn nơi Mông Sơn.

*

Một hôm có tin từ quê nhà gời đến, báo tin song thân đã mất.
Sư vào pháp đường bạch chùy nói: Phụ mẫu đều mất, thỉnh đại chúng niệm ma-ha bát-nhã.
Chúng vừa tu tập, Sư liền đánh chùy nói: Làm phiền đại chúng.
Liền xuống tòa.

*

1) Thần Hội: Tri Chi Nhất Tự Chúng Diệu Chi Môn - Một chữ "Tri" là cửa vào tất cả lẽ huyền
Thiền sư Thần Hội nói: "Một chữ "Tri" là cửa vào tất cả lẽ huyền diệu." Chữ "Tri" mà ngài Thần Hội muốn nói ở đây là sự tự chứng sâu xa hay trực giác Bát Nhã. Theo Thiền sư D.T. Suzuki, cái "Tri" hay tự chứng này tự bản chất vốn bất nhị. Nó có thể tự tri và có thể biết cái như thế mà không cần đến bất cứ một đối tượng bên ngoài nào để làm một điểm tưạ hay sở y hay chất kích thích nhờ đó mà những tư tưởng trong vòng nhị nguyên mới hiện hành được. Như vậy, sự duy trì tự chứng sẽ tự động ngừng tác động của tướng phần (đối tượng sở tri) cũng như kiến phần (chủ thể năng tri). Sự tu tập tự chứng hay bản thể thức như vậy cuối cùng sẽ hủy diệt tất cả những tư tưởng nhị nguyên và mang hành giả đến với Phật quả. Đó là cốt tủy của Duy Thức và là lý do tại sao mà cả Duy Thức và Thiền đề cao sự quan trọng của việc kiến tính bằng cách dẹp bỏ mẫu mực của tư tưởng nhị nguyên.

---o0o---

Hà Trạch Tự
(荷澤寺, Kataku-ji): hiện tọa lạc tại Lạc Dương (洛陽), Đông Đô (東都), Tỉnh Hà Nam (河南省).
Chùa Hà Trạch kiến lập vào thời nhà Đường, ban đầu chỉ là am Hà Trạch.
Chùa có tên Hà Trạch nhân vì chung quanh chùa rộng lớn trồng nhiều hoa sen (荷), đầm nước (澤) tiếp giáp chân trời.
Vào năm thứ 4 (745) niên hiệu Thiên Bảo (天寳), nhận lời thỉnh cầu của Tống Đỉnh (宋鼎), Thần Hội (神會) đến trú trì chùa này. Đây là nơi đã từng xảy ra cuộc luận tranh bài xích Bắc Tông Thiền với Sùng Viễn (崇遠). [X. chương Lục tổ Tuệ năng trong Lịch đại pháp bảo kí; Hà trạch hiển thị kí]

Hiển Tông Ký
Là tác phẩm của thiền sư Thần Hội. Trong Tạng kinh ghi là Hiển Tông Ký 顯宗記, bản Đôn Hoàng ghi là “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng 頓悟無生般若頌”.
Hiển Tông Ký, Hiển là hiển bày, Tông là Thiền tông, Ký là ghi. Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của thiền sư Thần Hội.
Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
Hai tên tuy khác nhưng chủ đích không khác.
Vô niệm vi tông, vô tác vi bổn.
Chơn không vi thể, diệu hữu vi dụng.
Phù chơn như vô niệm,
Phi tưởng niệm nhi năng tri thật tướng.
Vô sanh khởi sắc tâm nhi năng kiến.
Vô niệm niệm giả tức niệm chân như.
Vô sanh sanh giả, tức sanh thật tướng.
Vô trụ nhi trụ, thường trụ niết bàn.
Vô hành nhi hành, tức siêu bỉ ngạn.
Như như bất động, động dụng vô cùng.
Niệm niệm vô cầu, cầu bổn vô niệm.
Bồ đề vô đắc tịnh ngũ nhãn nhi liễu tam thân.
Bát nhã vô tri, vận lục thông nhi hoằng tứ trí.
Thị tri tức định vô định, tức huệ vô huệ, tức hành vô hành.
Tánh đẳng hư không, thể đồng pháp giới.
Lục độ tự tư viên mãn.
Đạo phẩm ư thị vô khuy.
Thị tri ngã pháp thể không, hữu vô song dẫn.
Tâm bổn vô tác, đạo thường vô niệm.
Vô niệm vô tư, vô cầu vô đắc.
Bất bỉ bất thử, bất khứ bất lai.
Thể ngộ tam minh tâm thông bát giải.
Công thành thập lực, phú hữu thất trân.
Nhập bất nhị môn, hoạch nhất thừa lý.
Diệu trung chi diệu, tức diệu pháp thân.
Thiên trung chi thiên, nãi Kim cang huệ.
Trạm nhiên thường tịch, ứng dụng vô phương.
Dụng nhi thường không, không nhi thường dụng.
Dụng nhi bất hữu, tức thị chân không.
Không nhi bất vô, tiện thành diệu hữu.
Diệu hữu tức Ma Ha Bát Nhã.
Chân không tức thanh tịnh niết bàn.
Bát nhã thị niết bàn chi nhân.
Niết Bàn thị bát nhã chi quả.
Bát nhã vô kiến, năng kiến niết bàn.
Niết bàn vô sanh, năng sanh bát nhã.
Niết bàn bát nhã danh dị thể đồng.
Tùy nghĩa lập danh, cố vân pháp vô định tướng.
Niết bàn năng sanh bát nhã tức danh chân thật pháp thân.
Bát nhã năng kiến niết bàn cố hiệu Như lai tri kiến.
Tri tức tri tâm không tịch.
Kiến tức kiến tánh vô sanh.
Tri kiến phân minh, bất nhất bất dị.
Cố năng động tịnh, thường diệu lý sự giai như như,
tức xứ xứ năng thông đạt, tức lý sự vô ngại.
Lục căn bất nhiễm tức định huệ chi công.
Lục thức bất sanh, tức như như chi lực.
Tâm như cảnh tạ, cảnh diệt tâm không.
Tâm cảnh song vong thể dụng bất dị.
Chơn như tánh tịch, huệ giám vô cùng.
Như thủy phân thiên nguyệt năng kiến văn giác tri.
Kiến văn giác tri, nhi thường niệm tịnh.
Không tức vô tướng, tịch tức vô sanh.
Bất bị thiện ác sở câu.
Bất bị tĩnh loạn sở nhiếp.
Bất yểm sanh tử, bất nhạo niết bàn.
Vô bất năng vô, hữu bất năng hữu.
Hành trụ tọa ngọa tâm bất động diêu.
Nhất thiết thời trung hoạch vô sở đắc.
Tam thế chư Phật, giáo chỉ như tư.
Tức bồ tát từ bi đệ tương truyền thọ.
Tự Thế Tôn diệt hậu, tây thiên nhị thập bát tổ,
cộng truyền vô trụ chi tâm, đồng thuyết như lai tri kiến.
Chi ư đại ma quật thử vi sơ đệ đại tương thừa ư kim bất tuyệt.
Sở truyền bí giáo, yếu tạ đắc nhơn.
Như vương kế châu, chung bất vọng dữ.
Phước đức trí huệ nhị chủng trang nghiêm.
Hạnh giải tương ưng phương năng kiến lập.
Y vi pháp tín, pháp thị y tông.
Duy chỉ y pháp tương truyền cánh vô biệt pháp.
Nội truyền tâm ấn, ấn khế bổn tâm.
Ngoại truyền ca sa, tương biểu tông chỉ.
Phi y bất truyền ư pháp, phi pháp bất thọ ư y.
Y thị pháp tín chi y. Pháp thị vô sanh chi pháp.
Vô sanh tức vô hư vọng, nãi thị không tịch chi tâm.
Tri không tịch nhi liễu pháp thân,
Liễu pháp thân nhi chơn giải thoát.

Hiển Tông Ký
Vô niệm là tâm, Vô tác là gốc
Chân không là thể, Diệu hữu là dụng
Chân như vô niệm,
Chẳng phải tưởng niệm mà hay biết được thật tướng.
Vô sanh mà khởi sắc tâm thành năng kiến.
Vô niệm mà niệm tức niệm chân như.
Vô sanh mà sanh, là sanh thật tướng.
Vô trụ mà trụ, thường trụ Niết-bàn.
Không làm mà làm tức vượt qua bờ kia.
Như như bất động, động dụng vô cùng.
Niệm niệm không mong cầu, cầu vốn vô niệm.
Bồ-đề không đắc, tịnh ngũ nhãn đắc ba thân.
Bát-nhã vô tri, vận lục không hoằng tứ trí.
Thế nên biết tức định mà không định,
tức huệ mà không huệ, tức hành mà không hành.
Tánh bình đẳng như hư không, thể cùng với pháp giới.
Sáu độ từ đây được tròn đầy.
Đạo phẩm khi này không thiếu sót.
Nên biết, ngã pháp thể là không, có không cả hai đều bặt.
Tâm vốn không tạo tác, chỗ chí đạo thường vô niệm.
Không nhớ, không nghĩ, không cầu, không chứng đắc,
Không đây, không kia, không đi, không lại.
Thể ngộ được tam minh, tâm thông bát giải thoát.
Công thành tựu mười lực, giàu có thất giác chi.
Nhập cửa bất nhị được lý nhất thừa.
Mầu nhiệm trong mầu nhiệm tức diệu pháp thân.
Trời trong các trời, là trí huệ Kim Cang.
Lặng lẽ thường yên tịnh, ứng dụng vô cùng.
Tuy dụng mà vẫn thường không, tuy không mà vẫn thường dụng.
Dụng mà chẳng có tức là chân không.
Không mà chẳng không liền thành diệu hữu.
Diệu hữu tức là Đại Bát-nhã,
Chân Không là Niết-bàn thanh tịnh.
Bát Nhã là nhân Niết-bàn.
Niết-bàn là quả của Bát-nhã.
Bát nhã không thấy mà hay thấy Niết-bàn.
Niết-bàn không sanh mà hay sanh Bát-nhã.
Niết-bàn và Bát-nhã tên khác mà thể đồng,
Tùy nghĩa đặt tên là pháp vô định tướng.
Niết bàn hay sanh Bát-nhã là chân thật pháp thân.
Bát nhã hay thấy Niết-bàn là Tri kiến Phật.
Biết là biết cái tâm lặng lẽ,
Thấy tức thấy tánh vô sanh.
Thấy biết rõ ràng chẳng phải một, chẳng phải khác,
Tuy có động tĩnh, nó thường diệu.
Sự lý vẫn lặng lẽ như như, mọi chỗ đều thông suốt,
Là sự lý không chướng ngại nhau.
Sáu căn không nhiễm là công phu của định huệ.
Sáu thức chẳng sanh là sức của như như.
Tâm mà như thì bặt cảnh, cảnh mất thì tâm không.
Tâm cảnh cả hai đều bặt, thể dụng cả hai đều không khác,
Chơn như vắng lặng trí huệ không cùng.
Như nước phân thành ngàn mặt trăng
Mà hay thấy nghe hiểu biết,
Thấy nghe hiểu biết mà thường vắng lặng.
Không tức không tướng, tịch tức không sanh.
Chẳng bị thiện ác trói cột, chẳng bị tịnh loạn nhiếp thuộc.
Chẳng chán sanh tử, chẳng ưa Niết-bàn.
Không chẳng hay không, có chẳng hay có,
Đi đứng nằm ngồi tâm chẳng lay động.
Trong tất cả thời được vô đắc.
Ba đời chư Phật, đều dạy như vậy.
Bồ tát từ bi nối tiếp nhau mà truyền thọ.
Từ Thế Tôn diệt độ, phương tây hai tám vị Tổ
đều truyền tâm vô trụ này, đồng nói tri kiến Phật.
Tổ Đạt-ma đến cõi này làm Sơ tổ trao truyền đến giờ không dứt.
Đều truyền bí giáo cốt tìm được người,
như ngọc của vua trọn không trao cho người tầm thường.
Phước đức trí huệ hai thứ trang nghiêm.
Hạnh giải tương ứng mới hay kiến lập.
Y là niềm tin của pháp, pháp là chủ của y.
Y và pháp truyền nhau, không có pháp khác.
Trong truyền tâm ấn, ấn hợp bổn tâm.
Ngoài truyền ca-sa, biểu trưng tông chỉ.
Chẳng y chẳng truyền pháp, không pháp không được nhận y.
Y là pháp tín, pháp là pháp không sanh.
Không sanh là không có hư vọng,
không hư vọng là tâm vắng lặng.
Thấy cái vắng lặng là thấy pháp thân.
Thấy pháp thân là chân thật giải thoát.

---o0o---

1- Thần Hội Hòa Thượng Thiền Ngữ Lục
2- Bồ Đề Đạt Ma Nam Tông Định Thị Phi Luận

Contact Information

Phone
Array
Address Array
This entry was posted in . Bookmark the permalink.