Additional Info
Thiền Sư Trí Nhàn Hương Nghiêm
Pháp tự đời thứ tư của Nam Nhạc Hoài Nhượng
Pháp tự của Quy Sơn Linh Hựu
Sư người Thanh Châu (bây giờ thuộc tỉnh Sơn Đông), chán tục từ song thân, quan phương mộ đạo tu tập, là đệ tử của Tổ Bách Trượng Hoài Hải. Trước khi đến với Bách Trượng, Hương Nghiêm đã dành nhiều thì giờ học tứ thư ngũ kinh (Khổng học) cũng như kinh điển truyền thống của Phật giáo, và Sư đã được tiếng là bác học. Sư lưu giữ những bản ghi chép lại về những gì mình đã học và nổi tiếng là người có sẵn câu trả lời cho mọi câu hỏi. Khi Bách Trượng qua đời, Sư sang tiếp tục công quả với Tổ Quy Sơn và trở thành đệ tử của Thiền Sư Qui Sơn (Linh Hựu cũng là một cao đệ của Tổ Bách Trượng). Qui Sơn biết sư là pháp khí nên có ý định kích phát ánh sáng trí tuệ của sư. Một hôm. Linh Hựu nói với sư:
- Ta không hỏi kiến giải một đời ông học hỏi, cũng không hỏi các văn cú mà ông nhớ được từ trong thiên kinh vạn quyển mà ông từng đọc qua, mà chỉ hỏi bổn phần sự khi ông chưa lọt bào thai chẳng biết gì cả. Ông thử nói một câu, ta sẽ dự ghi tương lai cho ông.
Sư mờ mịt không hiểu, chẳng thể đối đáp. Suy nghĩ một lúc lâu sư mới nêu vài câu trần thuật kiến giải của mình, đều không được Linh Hựu ấn khả. Sư nói:
- Thỉnh Hòa thượng nói giùm con !
Linh Hựu nói:
- Nếu ta nói thì đó là kiến giải của ta, đối với nhận thức đạo pháp của ông có gì hay đâu.
Sư quay về tăng đường, lục mọi văn cú thu tập được của tùng lâm các nơi trước đây kiểm qua một lượt mà rốt lại chẳng có một văn cú nào có thể đem ra ứng đối. Sư tự than thở: ‘Bánh vẽ không làm người ta no bụng’. Đoạn đem tất cả những gì ghi chép đốt sạch nói:
- Đời này không học Phật pháp nữa, chỉ làm hành cước tăng, mãi mãi ăn cơm cháo thí chủ, khỏi phải lao tâm, thương thần.
Sau đó, sư khóc biệt Qui Sơn ra đi. Đi đến Nam Dương (nav là dãy Đặng huyện Hà Nam), nhìn di tích của quốc sư Tuệ Trung, bèn dừng nghỉ lại đó. Một ngày kia, sư đang giẫy cỏ trong núi, nhân ngói bể gạch vụn văng vào cây trúc phát ra tiếng, ngay lúc đó bỗng nhiên tỉnh ngộ cười ngất. Sư liền quay về chỗ ở tắm gội sạch sẽ, đốt nhang lễ bái Linh.
Hựu từ xa, tán thán rằng:
- Hòa thượng từ bi quá cha mẹ. Nếu trước kia nói giùm con, thì đâu có được tình cảnh hôm nay.
Sau đó, sư làm bài thi cảm ngộ:
Nhất kích vong sở tri
Cách bất giả tu trì.
Động dung dương cổ lộ
Bất đọa thiểu (tiểu) nhiên ki (cơ).
Xứ xứ vô tung tích
Thanh sắc ngoại oai nghi.
Chư nhân đạt đạo giả
Hàm ngôn thượng thượng ki (cơ).
Dịch:
Một tiếng quên sở tri
Chẳng cần phải tu trì.
Đổi sắc bày đường xưa
Chẳng rơi cơ lặng yên.
Nơi nơi không dấu vết
Oai nghi ngoài sắc thanh.
Những người bậc đạt đạo
Đều gọi thượng thượng cơ.
Qui Sơn nghe được, nói với Ngưỡng Sơn: “Kẻ này đã triệt ngộ.” Ngưỡng Sơn thưa: “Đây là máy tâm ý thức trước thuật được, đợi con đến nơi khám phá mới chắc”.
Ngưỡng Sơn đến thăm Sư, bảo:
- Hòa thượng khen ngợi Sư đệ đã phát minh đại sự, thử nói tôi nghe?
Sư đọc bài tụng trước cho Ngưỡng Sơn nghe. Ngưỡng Sơn bảo:
- Đó là do trước kia học tập ghi nhớ mà thành, nếu thật chánh ngộ hãy làm bài tụng khác.
Sư nói tụng:
Khứ niên bần vị thị bần
Kim niên bần thủy thị bần
Khứ niên bần du hữu trác chùy chi địa
Kim niên bần chùy dã vô.
Dịch:
Năm xưa nghèo chưa thật nghèo
Năm nay nghèo mới thật nghèo
Năm xưa nghèo vẫn còn có đất cắm dùi
Năm nay nghèo dùi cũng không.
Ngưỡng Sơn bảo:
- Sư đệ ngộ Như Lai thiền mà chưa ngộ Tổ sư thiền.
Sư lại nói bài tụng:
Ngã hữu nhất ki (cơ)
Thuấn mục thị y
Nhược nhân bất hội
Biệt hoán Sa-di
Dịch:
Ta có một ki (cơ)
Chớp mắt chỉ y
Nếu người chẳng hội
Riêng gọi Sa-di.
Ngưỡng Sơn gật đầu và về thưa lại Qui Sơn:
- Đáng mừng! Sư đệ Trí Nhàn đã ngộ Tổ sư thiền.
*
Sau, Sư về trụ tại Hương Nghiêm, Tăng chúng nghe danh kéo nhau đến tham vấn.
Sư thượng đường nói:
- Đạo tại ngộ đạt, không tại lời lẽ. Huống chi thấy mật mật đường đường, chưa từng lúc nào cạn hết. Chẳng mệt tâm ý. Tạm mượn hồi quang. Ngày dùng hết công phu, đường mê tự đổi ngược.
Hỏi:
- Thế nào là cảnh của Hương Nghiêm ?
Sư đáp:
- Hoa quả cây cối không phồn vinh.
Hỏi:
- Thế nào là Tiên Đà bà?
Sư gõ giường Thiền nói:
- Lại khỏi chỗ này.
*
Hỏi:
- Thế nào là việc học ngày nay ?
Sứ lấy cây quạt quay vòng để khải thị nói:
- Thấy không ?
Tăng không lời đối đáp. Hỏi:
- Thế nào là chánh mạng thực ?
(Chú: Tăng lữ đi khất thực để duy trì chánh mạng mà tu học gọi chánh mạng thực.)
Sư lấy tay chộp một cái để khai thị.
Hỏi:
- Thế nào là vô biểu giới luật ?
Sư nói:
- Đợi chừng nào xà-lê hoàn tục sẽ nói.
Hỏi:
- Thế nào là một câu ngoài thanh sắc ?
Sư đáp:
- Như mỗ đây khi chưa trụ Hương Nghiêm thì nói tại chỗ nào ?
*
Tăng hỏi:
- Khi nào thì chẳng dám nói có sở tại ?
Sư nói:
- Như người huyễn tâm tâm sở pháp.
Tăng hỏi:
- Không mộ chư Thánh, không trọng linh ứng tự kỷ thì thế nào ?
Sư nói:
- Vạn cơ dừng nghỉ, ngàn Thánh không dắt.
Lúc đó, Sơ Sơn tại trong chúng lớn tiếng ụa nói:
- Đó là lời lẽ gì thế ?
Sư hỏi:
- Ai vậy ?
Chúng đáp:
- Sư thúc.
Sư nói:
- Không đồng ý lão tăng chăng ?
Sơ Sơn bước ra nói:
- Đúng vậy.
Sư nói:
- Ông cho là nói được đấy sao ?
Sơn nói:
- Nói được.
Sư nói:
- Ông thử nói xem nào !
Sơn nói:
- Nếu bảo mỗ nói thì phải hoàn lại lễ thầy trò mới được. Sư bèn hạ tòa lễ bái, rồi nêu lên câu khi nãy mà hỏi. Sơ Sơn nói:
- Sao không nói khẳng trọng chẳng thể toàn vẹn.
Sư nói:
- Cho dù ông như thế cũng cần 30 năm ói mửa. Dù cho trụ núi thì cũng không có củi nấu nướng, ở gần nước cũng không có nước uống. Hãy ghi nhớ cho kỹ nhé’.
Sau sư thúc trụ Sơ Sơn, quả như lời sư huyền ký. Tới năm thứ 27 mới hết bịnh mửa, nói:
- Sư huynh Hương Nghiêm dự ghi ta 30 năm ói mửa, nay mới 27 năm, còn thiếu ba năm.
Cho nên mỗi khi ăn xong, đều dùng tay móc họng cho mửa để ứng với lời dự ghi trước.
*
Hỏi:
- Thế nào là câu trước tiếng nói ?
Sư nói:
- Đại đức khi chưa hỏi là đã đáp rồi.
Tăng hỏi:
- Tức thời là thế nào ?
Sư nói:
- Tức thời hỏi đó.
Hỏi:
- Thế nào là trực tiệt nguồn gốc Phật sở ấn ?
Sư ném cây gậy xuống, thỏng tay mà đi.
Hỏi:
- Thế nào là đại ý của Phật pháp ?
Sư nói:
- Năm nay sương xuống sớm, lúa kiều mạch đều không thu hoạch
được.
Hỏi:
- Thế nào là chỉ ý của Tổ sư từ Tây lại ?
Sư lấy tay thọc vô bụng rồi móc ra cung thành nắm đấm đưa cho.
Tăng liền quì gối, lấy hai tay ra dáng như tiếp nhận. Sư nói:
- Là cái gì ?
Tăng không lời đối đáp.
Hỏi:
- Thế nào là đạo ?
Sư đáp:
- Cây khô rồng gầm (nguyên văn là ‘khô mộc long ngâm’).
Tăng nói:
- Kẻ học này không lãnh hội.
Sư nói:
- Con ngươi trong đầu lâu.
Chú: Độc lâu lý nhổn tinh tức con mắt trong đầu lâu là dụng ngữ Thiền tông chỉ khi đã diệt hết hết nhiễm tập trần tục, tình thức hư vọng thì sẽ hiển bày con mắt trí tuệ. Đây là thể nghiệm của con người ngộ đạo.
Hỏi:
- Rời tứ cú, bỏ bách phi, thỉnh Hòa thượng nói !
Sư nói:
- Trước thợ săn không nên nói giới luật của bổn sư.
*
Sư hỏi tăng:
- Từ đâu lại ?
Tăng đáp:
- Từ núi Qui Sơn lại.
Sư hỏi:
- Hòa thượng gần đây có ngôn cú gì ?
Tăng đáp:
- Người ta hỏi chỉ ý của Tổ sư từ Tây lại, Hòa thượng dựng cây xơ quất lên.
Sư nghe kể lại thế bèn nói:
- Anh em trong ấy hiểu chỉ ý của Hòa thượng thế nào ?
Tăng đáp:
- Anh em trong ấy thương lượng rằng: ‘Thấy sắc minh tâm, phụ vật hiển lý’.
Sư nói:
- Lãnh hội thì lãnh hội liền, không lãnh hội thì trước tử cấp làm chi?!
(Chú: Tử cấp không hiểu là nghĩa gì. Chờ chỉ giáo.)
Tăng hỏi:
- Ý sư thì thế nào ?
Sư liền dựng cây xơ quất lên.
Sư có làm bài kệ:
Tử thốt mẫu trác
Tử giác mẫu xác
Tử mẫu câu vong
Ứng duyên bất thát
Dịch:
Con kêu mẹ mổ
Con biết mẹ vỏ
Con mẹ đều quên
Hợp duyên chẳng lố.
Sư phàm khải thị học đồ, lời lẽ phần nhiều giản lược thẳng tuột, sư có hơn 200 bài kệ tụng, tùy duyên mà đối cơ, không câu nệ thanh luật
trắc bằng gì cả, thịnh hành khắp mọi nơi.
---o0o---
Công Án
1) Hương Nghiêm Kích Trúc: Hương Nghiêm ném gạch chạm bụi tre
Công án nói về cơ duyên ngộ Thiền của Thiền sư Hương Nghiêm khi Sư ném một miếng gạch chạm vào bụi tre. Theo Ngũ Đăng Hội Nguyên, quyển IX, khi Hương Nghiêm đi đến Nam Dương chỗ di tích Quốc Sư Huệ Trung, sư trụ tại đây. Một hôm nhơn cuốc cỏ trên núi, lượm hòn gạch ném trúng cây tre vang tiếng. Sư chợt tỉnh ngộ phá lên cười. Sư trở về tắm gội thắp hương nhắm hướng Qui Sơn đảnh lễ, ca tụng rằng: “Hòa Thượng từ bi ơn như cha mẹ, khi trước nếu vì con nói rồi thì làm gì có ngày nay.” Sư làm bài kệ:
“Nhất kích vong sở tri
Cánh bất giả tu trì
Động dung dương cổ lộ
Bất đọa thiểu nhiên cơ.”
(Một tiếng quên sở tri
Chẳng cần phải tu trì
Đổi sắc bày đường xưa
Chẳng rơi cơ lặng yên).
“Xứ xứ vô túng tích
Thinh sắc ngoại oai nghi
Chư nhơn đạt đạo giả
Hàm ngôn thượng thượng cơ.”
(Nơi nơi không dấu vết
Oai nghi ngoài sắc thinh.
Những người bậc đạt đạo
Đều gọi thượng thượng cơ).
2) Hương Nghiêm Nguyên Mộng: Hương Nghiêm đoán mộng
Công án nói về Thiền sư Hương Nghiêm và Ngưỡng Sơn đoán về giấc mộng của thầy mình là Quy Sơn Linh Hựu.
Theo Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, quyển IX, Quy Sơn đang nằm ngủ trên giường, Ngưỡng Sơn bước đến vấn an, Quy Sơn quay mặt vô vách tường mà ngủ. Ngưỡng Sơn nói:
- Hòa thượng sao lại đối xử với con như thế ?
Quy Sơn nói:
- Vừa rồi ta nằm mộng, vậy ông hãy đoán mộng cho ta.
Ngưỡng Sơn bưng lại một thau nước mời Hòa thượng rửa mặt. Lát sau đó Hương Nghiêm cũng đến vấn an, nói rằng mình đã "Hạ diện liễu tri". Quy Sơn nói:
- Vừa rồi ta nằm mộng. Tịch tử đã đoán cho ta rồi, nay ông cũng thử đoán xem.
- Hương Nghiêm bưng lại một chén trà mời Hòa thượng uống trà.
Quy Sơn nói:
- Hai người các ông kiến giải hơn cả chim Thu (tức Xá-lợi-phất) và Mục Kiền Liên
3) Hương Nghiêm Thượng Thụ: Hương Nghiêm Leo Cây, thí dụ thứ 5 của Vô Môn Quan
Một hôm, sư nói với đại chúng:
- Giả như có một người trên mỏm núi cao ngàn trượng, miệng ngậm nhánh cây, thân hình treo tòn ten, chân không chỗ chòi đạp, tay không chỗ vịn níu, bỗng nhiên có người hỏi về chỉ ý của Tổ sư từ Tây lại. Nếu mở miệng hồi đáp thì táng thân mất mạng, mà nếu không mở lời thì phụ lòng người ta han hỏi. Ngay lúc đó biết tính làm sao đây ?
Lúc ấy, có thượng tọa Chiêu bước ra nói:
- Lúc leo cây thì không nói tới, chỉ hỏi lúc chưa leo cây thì thế nào?
Sư mỉm cười thôi qua.
|