Additional Info
Tổ Sư Minh Châu Hương Hải (1628 - 1715)
I. Hành Trạng
Thiền sư Minh Châu Hương Hải hiệu là Huyền Cơ - Thiện Giác còn được gọi là Tổ Cầu, thuộc dòng thế phiệt, tổ tiên quê ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc, xứ Nghệ An, sinh năm Mậu Thìn (1628), tại xã Bình An Thượng, phủ Thăng Hoa, Quảng Nam.
Ông Tổ năm đời của Thiền sư Hương Hải làm Quản chu tượng, coi thợ đóng thuyền cho triều đình nhà Lê. Ông sinhđược hai người con trai:
- Con trưởng là Hùng Quận công, coi Lãng doanh, quản đốc 300 lính thợ.
- Con thứ là Trung Lộc hầu, làm chức Phó cai quan, là ông tổ bốn đời của Thiền sư Hương Hải.
Khoảng niên hiệu Chính trị (1558-1571), đời vua Lê Anh Tông, Trung Lộc hầu (không rõ tên họ) theo Đoan Quận công Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa.
Trung Lộc hầu được chúa Nguyễn Hoàng tin dùng nên cho thăng lên chức Chánh cai quản, quản lãnh thợ đóng thuyền, chúa Nguyễn Hoàng lại dâng sớ về triều đình vua Lê ở Tây Đô (Thanh Hóa) kể rõ công trạng và vua Lê phong cho Trung Lộc hầu hiệu “Khởi nghĩa Kiệt tiết công thần”, cấp cho 30 mẫu ruộng và cho con cháu được hưởng thế tập.
Thiền sư Hương Hải sống ở làng Bình An Thượng, phủ Thăng Hoa, lúc nhỏ rất thông minh và tài giỏi, đậu hương tiến (cử nhân) năm 18 tuổi (1645), được bổ làm Văn chức ở phủ chúa Nguyễn, đời chúa Thượng Nguyễn Phước Lan (1635-1648).
Năm 1652, Hương Hải được chúa Hiền Nguyễn Phước Tần (1648-1687) bổ làm tri phủ Triệu Phong (Quảng Trị), lúc mới 25 tuổi.
Hương Hải rất ham mộ đạo Phật, nên thời gian làm quan ở Quảng Trị, Hương hải theo cậu học Phật pháp với Thiền sư Viên Cảnh - Lục Hồ, sau đó Hương Hải cũng theo tham học với Thiền sư Viên Khoan - Đại Thâm. Nhưng hiện chúng ta chưa biết rõ các Thiền sư Viên Cảnh và Viên Khoan hành đạo ở chùa nào và truyền thừa như thế nào?
Hơn ba năm sau, khoảng năm 1655-1656, Hương Hải xin từ quan để xuất gia theo đạo Phật. Thiền sư Minh Châu - Hương Hải đã cùng với một số đệ tử dùng thuyền vượt biển Nam Hải, đến núi Tiêm Bút La trên Cù Lao Chàm (cách Hội An, Quảng Nam, khoảng 30km), cất am tranh để tu hành.
Nơi núi này, Thiền sư chí tâm tu tập thiền định, gìn giữ giới luật rất nghiêm minh, tám tháng sau, Thiền sư Hương Hải lại sang ngọn núi Ngọa Long trên cù lao Chàm để tu thiền. Cù lao Chàm hay hòn Lao, còn gọi là Đảo Chàm. Trên cù lao Chàm có 3 ngọn núi đá: Tiêm Bút, Bất Lao và Ngọa Long. Nơi đây là chốn đày ải và hành quyết các tử tù của nước Champa ngày xưa . Nơi cù lao này là hang ổ của ma quỷ đến quấy phá, ngăn trở việc tu hành của Thiền sư Hương Hải rất nhiều lần, nhưng Ngài vẫn không bị hoang mang, lo sợ, tâm vẫn an nhiên thanh tịnh, không chút động tâm.
Một đêm vào lúc canh hai, trong lúc thiền sư Hương Hải đang ngồi thiền định, các đồ đệ của Ngài trông thấy một con quỷ lớn đen sì, cao hai trượng (khoảng 8m), sồng sộc chạy vào am, một lúc rồi biến đâu mất, Thiền sư Hương Hải vẫn an nhiên thiền định. Đến cuối canh ba, bỗng có một con rắn lớn bò đến quấn chặt mình sư, sư ngồi yên, niệm chú “thần đao”. Một lát sau con rắn biến mất.
Một hôm khác, vào lúc giữa ban ngày, mây đen bỗng kéo đến trước sân am tranh, làm tối mịt mù, giông gió thổi ầm ầm, cây gãy cát bay, mái nhà tung nóc, thình lình có tiếng vang như muôn ngàn con mèo kêu lên một lượt, tiếng kêu rất ghê rợn kinh khủng, nhưng Thiền sư Hương Hải không chút sợ hãi, vẫn ngồi thiền định tự nhiên.
Một đêm khác, vào giữa khuya, Thiền sư Hương Hải đang ngồi thiền định trước bàn thờ Phật, hương đèn sáng choang, bỗng thấy một đám ma quái, vừa nam vừa nữ, đứa cầm dao, đứa cầm mác, đứa đầu trâu đứa mặt ngựa, đứa đầu voi… đứng vây xung quanh sư. Sư cảm thấy đau bụng mắt mờ, không còn thấy ánh sáng của đèn, sư Hương Hải liền kiết ấn tam muội, quán tưởng lửa thiền định theo pháp kim cương tam muội, đốt cháy cả thân mình và cháy tiêu cả thế giới, một lúc sau, chúng ma quỷ biến đâu mất, cảnh sắc lại quang minh như cũ.
Thiền sư Hương Hải cho rằng đất đó là ác địa, khó giáo hóa được, nên rời đảo, trở về quê cũ là làng Bình An Thượng để tu hành.
Một đêm có người Mán (có lẽ là người Chiêm Thành) lại gõ cửa, thiết tha thỉnh mời Thiền sư Hương Hải ra đảo Tiêm Bút La để hoằng dương Phật pháp. Sư Hương Hải hỏi nguyên do sao lại quyết mời sư ra đó, người Mán thưa: “Sư cụ bỏ đảo về đất liền được bốn ngày, thì cả ba đền ở trên đảo Tiêm Bút La là: đền Cao Các Đại vương, đền Phục Ba Đại vương và đền Bô Bô Đại vương đều nhập đồng lên nói rằng: “Hôm nọ, bọn yêu tinh ma quái tác quái mấy lần để làm não hại Pháp sư, chúng ta (các thần) ngồi yên xem thử coi ai thắng ai thua. Chúng ta thấy Pháp sư biến hình, biến tướng, không biết sư ở đâu, khiến cho bọn yêu tinh phải lui hết. Chúng ta thấy Pháp sư thiệt là bậc đạo hạnh kiêm toàn, vì vậy báo cho dân làng biết để thỉnh sư về trụ trì ở đây”.
Vì vậy, Thiền sư Minh Châu Hương Hải lại cùng đệ tử lên thuyền trở ra đảo Tiêm Bút La để hoằng hóa. Thiền sư Hương Hải hoằng dương Phật pháp ở đó suốt 8 năm mà không có chướng ngại nào, đạo hạnh ngày càng cao, dân chúng rất tôn kính, danh tiếng sư đồn xa, quan dân gần xa đều rất ngưỡng mộ.
Thuần Quận công (không rõ tên), trấn thủ dinh Quảng Nam có bà vợ đau đã lâu mà không thầy thuốc nào trị hết bệnh. Nghe tiếng Thiền sư Hương Hải nên Thuần Quận Công cho người ra đảo rước sư về dinh để trị bệnh. Thiền sư Hương Hải lập đàn tụng kinh bảy ngày bảy đêm thì bà được hết bệnh. Cả gia đình Thuần Quận công đều hết sức kính phục và đồng xin quy y thọ giới với Thiền sư Hương Hải. Xong việc, Thiền sư Hương Hải lại trở ra đảo Tiêm Bút La.
Hơn nửa năm sau, quan Chưởng thái giám là Hoa Lễ hầu ở dinh Quảng Nam bị bệnh lao đã ba năm, nghe danh Thiền sư Hương Hải nên cho thuyền ra đảo rước sư về nhà trị bệnh, Thiền sư Hương Hải cho lập đàn Đại sám hối trong mười ngày, Hoa Lễ hầu được hết bệnh.
Hoa Lễ hầu về Phú Xuân (Thuận Hóa) đem việc đó kể lại cho chúa Hiền Nguyễn Phước Tần (1648-1687), chúa Hiền rất ngưỡng mộ nên cho sứ ra đảo Tiêm Bút La thỉnh thiền sư Hương Hải về dinh phủ ở đô thành Phú Xuân.
Chúa Hiền ra tận cửa phủ đón Thiền sư Hương Hải, thăm hỏi và tham vấn Phật pháp. Sau đó, chúa Hiền cho lập Thiền Tịnh viện ở núi Qui Cảnh (núi Linh Thái ở cửa biển Tư Dung) để Thiền sư Hương Hải hoằng hóa (khoảng năm 1667). Quốc thái phu nhân và ba công tử (con của chúa Hiền) là Phúc Mỹ hầu, Hiệp Đức hầu, Hoằng Ân hầu cùng một số quan tướng trong triều đình chúa Nguyễn thọ giới quy y với Thiền sư Hương Hải, có đến 1.300 người.
Thiền sư Hương Hải hoằng dương Phật pháp ở Thiền Tịnh viện trên núi Qui Cảnh được một thời gian, nhiều Phật tử đến thọ giới quy y. Lúc bấy giờ, có quan Thị nội giám là Gia Quận công (không rõ tên), người làng Thụy Bái, huyện Gia Định, làm quan ở Đàng Ngoài, khi chúa Hiền cử quân ra đánh Đàng Ngoài, chiếm được bảy huyện của trấn Nghệ An (từ phía Nam sông Lam vào đến sông Doanh), bắt được Gia Quận công, nhưng chúa Hiền tha tội và cho dạy học ở nội cung của chúa. Gia Quận công cũng thường hay đến Thiền Tịnh viện nghe Thiền sư Hương Hải thuyết pháp và tham vấn Phật pháp. Nhưng có người trong triều đình chúa Hiền ganh ghét, tâu là Gia Quận công và Thiền sư Hương Hải âm mưu trốn ra Đàng Ngoài theo chúa Trịnh. Chúa Hiền cho bắt hai người để điều tra, nhưng không có bằng chứng kết tội, chúa Hiền cho thả Thiền sư Hương hải, nhưng không cho ở Thiền Tịnh viện nữa mà phải vào tu hành ở Quảng Nam.
Tháng 3 năm Nhâm Tuất (1682), Thiền sư Hương Hải cùng khoảng 50 đệ tử dùng thuyền vượt biển trốn ra Đàng Ngoài, thuyền ghé vào trấn Nghệ An, vào yết kiến quan trấn thủ là Trịnh Na hầu. Quan trấn thủ tâu về triều đình, chúa Trịnh Tạc sai Đường Quận công đem thuyền vào Nghệ An rước Thiền sư Hương Hải và các đệ tử ra Đông Đô (Thăng Long), cho tạm ngụ tại công quán. Chúa Trịnh sai Nội giám là Nhượng Quận công và Bồi tụng Lê Hy đến điều tra lý lịch, cho gọi người ở làng Áng Độ đến để xác nhận.
Sau khi điều tra xong, chúa Trịnh Tạc (1657-1686) cho mời Thiền sư Hương Hải vào triều thăm hỏi và phong cho chức Vụ sử, thưởng 300 quan tiền, mỗi năm cấp 24 lâu thóc, 36 quan tiền, một tấm vải trắng. Đệ tử của Thiền sư Hương Hải, mỗi người mỗi năm được cấp 12 lâu thóc và 12 quan tiền. Chúa Trịnh còn bảo Thiền sư Hương Hải vẽ bản đồ lãnh thổ Đàng Trong. Sư vẽ rất rõ ràng, chúa Trịnh khen ngợi và thưởng cho 2.000 quan tiền.
Tháng Tám năm đó, chúa Trịnh lại cho người đưa Thiền sư Hương Hải đến nhà công quán ở trấn Sơn Tây. Ở đó được tám tháng, chúa Trịnh lại cho đưa Thiền sư Hương Hải về ngụ ở trấn Sơn Nam, chúa Trịnh Tạc ra lệnh cho trấn thủ Sơn Nam là Lê Đình Kiên xây cất am và cho 3 mẫu đất công để Thiền sư Hương Hải trú ngụ và tu hành, lúc đó sư Hương Hải được 56 tuổi (1683).
Ở Sơn Nam, Thiền sư Hương Hải tu hành tinh tấn, giữ giới luật tinh nghiêm, đặc biệt sư chuyên tâm vào việc dịch kinh ra chữ Nôm, được 30 quyển, cho khắc bản in và ấn hành.
Năm Canh Thìn (1700), Thiền sư Hương Hải sang hành đạo ở chùa Nguyệt Đường, xã Đông Khê, huyện Kim Động, phủ Khoái Châu, trấn Sơn Nam (Hưng Yên). Lúc đó, sư có 70 đệ tử theo học, tất cả đều tinh thông kinh luật. Thiền sư Hương Hải cho trùng tu lại chùa Nguyệt Đường rộng lớn và tráng lệ hơn. Chính ở chùa Nguyệt Đường, Thiền sư Hương Hải mở rộng sự giáo hóa, phục hưng lại phái thiền Trúc Lâm, giúp cho phái này phát triển mạnh trở lại và được tiếp tục truyền thừa cho đến đời nhà Nguyễn (1802-1945) sau này.
Dưới triều vua Lê Dụ Tông (1705-1729), vua rất kính trọng Thiền sư Hương Hải, thỉnh thoảng mời vào cung để tham vấn Phật pháp. Vua hiếm con, nên năm 1705, vua mời Thiền sư Hương Hải vào nội điện để lập đàn “cầu tự” (cầu cho có con nối ngôi),
Một hôm, vua Lê Dụ Tông hỏi Thiền sư Hương Hải (lúc đó 78 tuổi):
- Trẫm nghe lão sư học rộng, hiểu nhiều, vậy xin lão sư thuyết pháp cho trẫm nghe để hiểu rõ đạo pháp.
Thiền sư Hương Hải tâu rằng:
- Bần tăng có bốn câu kệ này, xin bệ hạ chú tâm nghe để hiểu rõ:
Phiên âm:
Phản văn tự kỷ mỗi thường quan
Thẩm sát tư duy tử tế khan
Mạc giáo mộng trung tầm tri thức
Tương lai điện thượng đổ sư nhan.
Dịch nghĩa:
Hàng ngày thường quán xét lại chính mình
Thẩm xét, suy nghĩ thật tinh tế càng hay,
Chớ tìm tri thức trong giáo nghĩa, đó chỉ là cơn mộng,
Như thế, trong tương lai, mới có thể tìm được “Bản lai diện mục” của mình ở ngay chính chân tâm của mình .
Tạm dịch thơ:
Ngày ngày thường quán lại chính mình
Thẩm sát, suy tư thật tinh tường,
Tầm tri kinh điển là trong mộng
Bản lai diện mục chính mặt này.
Vua lại hỏi:
- Thế nào là ý chỉ của Phật?
Thiền sư Hương Hải đáp:
Nhạn quá trường không,
Ảnh trầm hàn thủy
Nhạn vô di tích chi ý,
Thủy vô lưu ảnh chi tâm.
Tạm dịch:
Nhạn bay trên không
Bóng chìm dưới nước
Nhạn không có ý để dấu,
Nước không có tâm lưu hình.
Tháng Sáu năm Giáp Ngọ, niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 10 (năm 1714), Thiền sư Hương Hải đã 87 tuổi, chúa Trịnh Cương (1709-1729), nhân đi kinh lý ghé thăm viếng chùa, phát tâm cúng dường cho chùa một ngàn quan.
Chúa Trịnh Cương ngự thơ rằng:
Danh lam từng trải đã hay danh
Trình độ này âu hợp chốn trình.
Pháp giới chăm chăm tuyên diệu pháp
Kinh lâu rở rở diễn chân kinh.
Công nhiều nhờ có công vô lượng
Thế thuận vậy nên thế hữu tình.
Ngăn tục mựa hề mùi tục lụy
Long thiền tua kinh chốn thiền khuynh.
Một hôm, quan Trấn thủ Ứng Quận Công Đặng Đình Tướng (1659-1735 ) đến viếng chùa Nguyệt Đường, làm bài thơ vịnh cảnh chùa:
Xuân hoa nhân vọng mộc thiều dương
Hạ nhật giai nhân thưởng Nguyệt Đường
Lão bá đình tiền trương thúy cái,
Nộn hà lam ngoại tiến kỳ hương
Băng tâm trì ấn tuyên kim dũng
Thiết diện tuần tường vọng đạo lương
Cơ chủng hữu tình qui bút để,
Huyền huyền vi đắc nhất thiên trường.
Dịch nghĩa:
Hoa xuân người ngắm tắm thiều dương
Ngày rãnh giai nhân viếng Nguyệt Đường
Tùng cỗi trước sân trương lọng thúy,
Sen non ngoài cửa ngát mùi hương.
Lòng băng trì ấn truyền kinh lão
Mặt sắt men tường ngắm giáo lương.
Bao thứ hữu tình tuôn đỗ bút,
Thơ huyền thưởng thức một vài chương.
(Lê Mạnh Thát)
Quan Trấn thủ thường đến tham vấn phật pháp, Thiền sư Hương Hải có bài thơ khen ngợi tướng quân:
Hướng minh quy mệnh sự quân vương
Yết kiến tôn công khánh thọ trường.
Tài dụng kinh luân kiêm đức hạnh
Ấn thi lễ nghĩa quí văn chương.
Ngoại trừ đạo tặc binh nhân ái
Nuôi dưỡng trinh liêm sĩ tốt cường
Quyền trấn nam giao danh tứ hải,
Khuông phò quốc chánh lạc quần phương.
Dịch nghĩa:
Vua sáng trở về giúp vận nên
Tôn công thăm hỏi tuổi mừng nên.
Kinh luân đức hạnh tài dùng đủ
Lễ nghĩa văn chương ý đáp đền
Ngoài trừ đạo tặc quân dân thích
Trong dưỡng trinh liêm sĩ tốt bền.
Quyền trấn cỏi nam tên bốn bể,
Khuông phò đất nước sướng muôn bền.
(Lê Mạnh Thát)
Vào mùa xuân, một hôm thiền sư Hương Hải ngâm bài thơ:
Tam dương khai thái chuyển hồng quân,
Cửu thập thiều quang sắc sắc tân.
Dịch nghĩa:
Dạ tỉnh thanh phong điều ngọc lộ.
Nhật tình thụy khí ái từ vân.
Sơn ca thâm thọ hy, ky, mỹ,
Bình địa viên hoa phức úc huân.
Xứ xứ nghinh tường ca vạn thọ,
Nhân dân hòa lạc vịnh thiên xuân.
Ba dương mở thái chuyển đất trời,
Chín chục thiều quang sắc sắc tươi.
Đêm lạnh gió thanh đưa móc ngọc,
Ngày trong khí mát rợm mây lơi.
Non cao cây cối xinh xinh lạ,
Đất phẳng vườn hoa ngát ngát hương.
Chốn chốn nghinh lành ca vạn thọ
Người người vui sướng vịnh xuân đời.
( Lê Mạnh Thát)
Một hôm , quan Trấn Thủ đến chùa Nguyệt Đường, vịnh bài thơ:
Lục trầm thuỳ thức ngụ thao tàng,
Kim Nguyệt Đường phi tích Nguyệt Đường.
Tùng lão cao đê trương thúy cái,
Hà tiên thứ đệ tiến kỳ hương.
Thiền trai túc ấn trì băng ngọc,
Khách xá tân tiêu dẫn phượng hoàng.
Yêu phước bất tu sùng huyễn huyễn
Giác lai nhất niệm thị y vương.
Dịch nghĩa:
Chết cạn ai hay ở ẩn vừa,
Nguyệt Đường nay khác Nguyệt Đường xưa.
Thông già cao thấp giương lọng biết,
Sen tiên thức lớp hương ngát đưa.
Hồng thiền giữ ấn gìn băng ngọc,
Nhà khách sáo hay dẫn phượng hoàng.
Cầu phước đâu cầu sùng mộ huyễn
Một niệm giác đến tức y vương.
Một hôm, sư hỏi môn nhân:
Mặt thật xưa nay như thế nào?
Đại chúng đáp :
Non sinh đầy mắt không tấc cỏ,
Tột nhìn nước biết hết sóng lan .
(Mãn mục thanh sơn vô thốn thảo
Cực mục lục thuỷ tuyệt ba từng).
Sư lại hỏi:
Thế nào là pháp thân chính mình?
Đại chúng đáp:
- Năm uẩn pháp không, thể trùm sa giới.
Đầu mùa xuân năm Ất mùi (1715), Tổ sư Minh Châu Hương Hải nói với đệ tử Chân Lý - Hiển Mật rằng:
- Ta nay khí lực đã yếu kém, bệnh hoạn suy yếu, thời đã đến rồi, không thể sống lâu được nữa.
Sư Chân Lý bạch:
- Phật pháp vi diệu, có gì thiết yếu, xin Thầy truyền dạy cho hết lẽ .
Tổ Sư Hương Hải nói:
- Đạo giáo từ xưa đến nay đã trao phó là bặt ngôn từ, không lời để nói. Chính ngay nơi đó là Ta phó thác .
Sư Chân Lý lại hỏi:
- Đại chúng nên ứng dụng như thế nào ?
Tổ sư nói: Lấy tâm mà dùng .
Ngày mùng 10 tháng 05 năm đó, vào giờ Dậu, môn đồ trong chùa bổng thấy sao sáng xuất hiện, chiếu sáng rực cả Chùa. Qua sáng ngày 12 , Tổ Sư Hương Hải bảo môn đồ lo nước tắm. Tắm xong, Tổ sư trở về phòng, bảo Chân Lý:
- Ta đến lúc mạng chung, bảo cho tất cả Đại chúng biết. Sư Chân Lý đem pháp phục ca – sa cho Tổ mặc, Đội mão Chuẩn Đề, đeo xâu chuổi tràng hạt. Tổ sư ngồi kiết già nhập định hai giờ, rồi phó chúc Bài kệ :
Thời đương bát thập bát
Hốt nhiên đăng tọa thoát
Hữu lai diệc hữu khứ
Vô tử diệc vô hoạt
Pháp tính đẳng hư không
Sắc thân như bào mạt
Đông độ ly ta bà
Tây phương liên ngạc pháp
Dịch:
Tuổi đương tám mươi tám
Tọa thoát tự nhiên bỗng
Có đến cũng có đi
Không chết cũng không sống
Pháp tính giống hư không
Sắc thân như bọt mọn
Đông độ rời ta bà
Tây phương đài sen đón
Tổ sư ngâm kệ xong, đến giờ Mùi ngồi yên lặng viên tịnh .
Thiền Sư Chân Lý cùng môn đồ xây tháp ba từng, cao 21 thước, làm khám báu, Tượng tổ để thờ cúng tại Chùa Nguyệt Đường .
Kế thế trụ trì Chùa Nguyệt Đường sau đó là Tăng Thống Chân Lý - Hiển Mật, rồi đến Thiền sư Như Nguyệt - Hoa Quang ,Tăng Thống Tánh Thanh , Thiền Sư Hải Đàm …
Thiền sư Hương Hải có nhiều đệ tử, nhưng chỉ chọn được 70 pháp tử, trong đó có nhiều vị thuộc hàng đệ nhất Thượng tọa, trưởng tử là Thiền sư Chân Lý-Hiển Mật, pháp tôn nhiều không kể hết, đều có pháp tự mang chữ “Như” như: Như Đức, Như Nguyệt.
Các đệ tử xây tháp ba từng và lập am để thờ.
Thiền sư Minh Châu Hương Hải có công đức lớn trong việc phục hưng và phát triển phái thiền Trúc Lâm đã bị mai một sau khi nhà Trần mất ngôi (năm 1400). Phái thiền Trúc Lâm được thịnh đạt trở lại và còn phát triển ở Đàng Ngoài cho đến đời nhà Nguyễn (1802-1945) là do công của Thiền sư Hương Hải và các đệ tử.
Thiền sư Minh Châu Hương Hải biến chùa Nguyệt Đường thành một trong các thiền lâm lớn nhất ở Đàng Ngoài thời đó và là một trong những trung tâm Phật giáo quan trọng ở Đàng Ngoài và của cả nước thời đó.
Chùa Nguyệt Đường trở thành Tổ đình của phái thiền Trúc Lâm, bên cạnh các Tổ đình xưa của phái này được phục hưng trở lại như chùa Lân Động (núi Yên Tử), chùa Vĩnh Nghiêm (Bắc Giang), chùa Hương Hải (Chí Linh-Hải Dương)…
---o0o---
II. Ngữ Lục Của Thiền Sư Minh Châu Hương Hải
Thiền sư Minh Châu Hương Hải thuộc phái thiền Trúc Lâm, pháp môn tu hành tổng hợp Thiền-Tịnh-Mật, qua hành trạng của sư, chúng ta thấy rõ điều này:
Sau thời gian tu học thiền với Thiền sư Viên Cảnh - Lục Hồ, tu hành ở đảo Tiêm Bút La và núi Ngọa Long, Thiền sư Hương Hải đã thiền định, hành trì mật tông, dùng pháp thuật trừ yêu quái, lập đàn sám hối, trị bệnh…, sau đó được chúa Hiền mời về hoằng hóa ở Thiền Tịnh viện trên núi Qui Cảnh. Khi ra Đàng Ngoài, ở trấn Sơn Nam, lập đàn Chuẩn Đề để tu trì. Năm 1700 lập chùa Nguyệt Đường xiển dương phái thiền Trúc Lâm, ngoài việc thuyết giảng Kinh-Luật-Luận, Thiền học, Tịnh độ, Thiền sư Hương Hải còn dịch kinh chú giải và biên soạn kinh sách chữ Nôm, cho khắc in phổ biến kinh sách thuộc Thiền tông (Kim Cang, Bát Nhã, Pháp Bảo Đàn, Chân tâm trực thuyết), Tịnh Độ (A Di Đà, Vô Lượng Thọ, Địa Tạng…), còn chú giải kinh Pháp Hoa, các khoa nghi khác.
Tư tưởng thiền của Thiền sư Hương Hải chịu ảnh hưởng của Lục Tổ Huệ Năng. Ngoài ra, để hòa hợp với xã hội Đàng Ngoài đang còn chịu nhiều ảnh hưởng của Nho giáo và Lão giáo, Thiền sư Hương Hải cũng có một số bài thơ mang tư tưởng “Tam giáo đồng nguyên’’ (Phật-Nho-Lão cùng có một nguồn gốc).
Thiền sư Minh Châu Hương Hải để lại rất nhiều kinh sách, hầu hết là chú giải các bộ kinh luận và luật.
1 - Kinh Pháp Hoa giảng giải.
2 - Kinh Kim Cương lý nghĩa.
3 - Kinh A Di Đà giảng giải.
4 - Kinh Vô Lượng Thọ giảng giải.
5 - Kinh Địa Tạng giảng giải.
6 - Quán Vô Lượng Thọ kinh quốc ngữ.
7 - Phật Tổ Tam Kinh giảng giải (3 quyển).
8 - Sa Di giới luật giảng giải.
9 - Tâm Kinh Đại Diện giảng giải.
10 - Tâm Kinh Ngũ Chỉ giảng giải.
11 - Tâm Châu Nhất quán giảng giải.
12 - Cúng Phật Tam Khoa cát.
13 - Cúng Dược Sư nhất khoa.
14 - Cúng Cửu phẩm nhất khoa.
15 - “Chân Tâm Trực Thuyết “ giảng giải.
16 - Pháp bảo đàn kinh giảng giải.
17 - Phổ khuyến tu hành giảng giải.
18 - Cơn duyên vấn đáp tinh giải.
19 - Sự lý dung thông.
20 - Bảng điều Giảng Giải
Và rất nhiều bài văn, bài thơ giảng giải về Phật Pháp …Thiền sư Minh Châu Hương Hải thường dùng những bài giảng, những bài kệ để giảng dạy cho đệ tử, đồng thời Ngài cũng thường đọc lại những bài kệ, hoặc nhắc lại những diệu ngữ của các bậc cao tăng xưa để giáo hóa đồ chúng (Có nhiều bài thơ kệ của các Thiền sư Trung Hoa)
Thiền ngữ của Thiền sư Hương Hải thường đề cập đến những vấn đề sau: Thiền định, pháp bất nhị, vô tâm hay vô niệm, chân tâm và tùy tục. [Các bài thơ sau đây chỉ chú trọng phần dịch nghĩa]
1. Thiền Định
Giảng giải về Thiền Định, thiền sư Hương Hải có nhiều bài kệ, đặc biệt nhất là bài kệ mà Thiền sư Hương Hải đọc cho vua Lê Dụ Tông nghe:
Ngày ngày thường quán lại chính mình
Thẩm sát, suy tư thật tinh tường,
Tầm tri kinh điển là trong mộng
Bản lai diện mục chính mặt này!
(2)
Thiền sư Hương Hải cũng có những bài kệ khác để dạy về thiền định như sau:
Người ngu trừ cảnh, chẳng trừ tâm
Người trí trừ tâm, không trừ cảnh
Chẳng biết tâm cảnh vốn như như
Ngộ duyên mắt nhìn, nhưng vẫn định.
(Ngu nhân trừ cảnh bất trừ tâm
Trí nhân trừ tâm bất trừ cảnh
Bất tri tâm - cảnh bản như như,
Xúc mục ngộ duyên thường trấn định.)
(3)
Việc hằng ngày không gì là không đạo
Tâm an tức là Thiền,
Dừng nghĩ nơi hang núi thẳm, mù mịt mây che
Ngủ mơ nơi chốn bờ lau, bãi tuyết.
Nhựt dụng phi vô đạo
Tâm an tức thị Thiền
U thê vân hác để
Mộng mị tuyết bồng biên.
(Ngày ngày không gì là không đạo
Tâm an tức là Thiền,
Dừng nghĩ hang mây thẵm.
Mộng mị bên bãi tuyết).
(4)
Cảnh lập tâm liền có,
Tâm không, cảnh không sinh
Cảnh không, tâm vắng lặng
Tâm chiếu, cảnh mênh mang.
(Cảnh lập tâm tiện hữu,
Tâm vô cảnh bất sinh,
Cảnh không tâm tịch tịch
Tâm chiếu cảnh linh linh.)
(5)
Thấy đạo mới tu đạo
Không thấy còn tu chi?
Tánh đạo như hư không
Hư không có những gì?
(Kiến đạo phương tu đạo
Bất kiến phục hà tu?
Đạo tánh như không hư
Không hư hà sở hữu?
Coi khắp người tu đạo
Bới lửa tìm bọt nước
Chỉ thấy trò múa rối
Hết duyên, thảy đều ngưng.
Biến quán tu đạo giả
Bát hỏa mịch phù âu
Đản kiến lộng qủi lỗi
Duyên đoạn nhất tề hưu.)
(6)
Ngộ tâm còn dể, định tâm khó,
Định được nguồn tâm, đến xứ nhàn,
Sao chuyển, Đẩu xoay, trời muốn sáng,
Mây trắng như xưa, phủ núi xanh.
(Ngộ tâm dung dị, tức tâm nan,
Tức đắc tâm nguyên, đáo xứ nhàn,
Đẩu chuyển tinh di, thiên dục hiển,
Bạch vân y cựu phú thanh sơn.)
(7)
Không thấy một pháp còn không thấy
Giống như mây bay che mặt trời,
Không biết một pháp giữ biết không
Khác gì tia chớp lòe thái hư.
Biết thấy như thế, chợt dây lên
Nhận lầm sao tìm phương giải thoát?
Ngươi nên một niệm, tự biết trái,
Tự ta linh quang thường hiện hiện.
(Bất kiến nhất pháp, tồn vô kiến,
Đại tự phù vân già nhựt diện.
Bất tri nhất pháp, thủ không tri,
Hoàn tự thái hư trùng thiểm diện.
Thử chi tri kiến phách nhiên vô,
Thác nhận hà tằng giải phương tiện.
Nhử đương nhất niệm tự tri phi,
Tự kỷ linh quang thường hiển hiện.)
(8)
Trên trời, các sao chầu về Bắc
Trần gian, mọi sông chảy về Đông.
Cạo lông rùa, trên lưng trâu sắt,
Chặt sừng thỏ, bên eo gái đá.
Dạ xoa, la sát đều cúi đầu,
Lũ quỉ đầu trâu lại ra quyền.
(Thiên thượng hữu tinh dai cũng Bắc
Nhân gian vô thủy bất triều Đông.
Quát qui mao, ư thiết ngưu bội thượng
Triệt thỏ giác, ư thạch nữ yêu trung.
Dạ xoa, la sát tài khế thủ,
Ngục tốt ngưu đầu tiện kinh quyền.)
Sau thời gian chí tâm tu luyện thiền định, thiền giả có thể đạt đến cảnh giới của người ngộ đạo:
(9)
Cây khô trước núi dễ lạc đàng,
Người đi đến đó thảy mơ màng.
Tuyết trong, cò trắng đâu đồng sắc
Trăng sáng, hoa lau chẳng giống màu.
Liễu, liễu, liễu rồi không chỗ liễu,
Huyền, huyền, huyền đó cũng thênh thang.
Ân cần hát khúc huyền trung ấy,
Giữa trời trắng sáng ánh lung linh
(Khô mộc nham tiền sai lộ đa,
Hành nhân đáo thử, tận tha đà.
Lộ tư lập tuyết phi đồng sắc
Minh nguyệt lê hoa bất tợ tha.
Liễu, liễu, liễu thời vô sở liễu,
Huyền, huyền, huyền xứ diệc tu đa.
Ân cần vị xướng huyền trung khúc,
Không lý thiền quang yết đắc ma!)
(10)
Bỏ vọng về chơn, muôn lụy không
Phàm thánh như cát, xưa nay đồng.
Mê đến, như thế ngài vào lửa,
Ngộ rồi mới hay hạc sổ lồng.
Một mảnh bóng trăng soi ngàn suối
Thông coi reo mãi gió bốn mùa.
Cần phải thầm thông tâm tâm địa
Mới hay cuộc sống giấc mộng nồng !
(Phản vọng qui nhân vạn lụy không
Hà sa phàm thánh bản lai đồng.
Mê lai tân thị nga đầu diệm,
Ngộ khứ phương tri hạc xuất lung
Phiến nguyệt ảnh phân thiên giản thủy
Cô tùng thinh nhậm tứ thời phong.
Trực tu mật khế tâm tâm địa.
Thủy ngộ bình sinh thùy mộng trung.)
(11)
Tâm pháp đều quân còn cách vọng
Sắc không chẳng khác vẫn thừa trần.
Trăm chim chẳng đến xuân vẫn qua
Không biết ai là người trụ am!
(Tâm pháp song song du cách vọng
Sắc không bất nhị thượng dư trần
Bách điểu bất lai, xuân hựu quá
Bất tri thùy thị trụ am nhân!)
(12)
Một nhảy, nhảy khỏi bốn biển lớn
Một đấm, đấm ngã núi Tu Di
Trong ngôi Phật tổ mời chẳng ở
Lại thổi sáo chài, thẳng La Loan (*)
(Nhất dược, dược phiên tứ đại hải
Nhất quyền, quyền đảo Tu Di sơn
Phật tổ vị trung lưu bất trụ
Hựu suy ngư dịch bạc La Loan).
(*) La Loan là chổ biển của quỉ La Sát ở, La Sát là quỉ dữ nhất trên thế gian, ai cũng phải sợ. Nhưng ở đây, người ngộ đạo rồi không còn biết sợ gì cả, vẫn ung dung vừa chèo thuyền vừa thổi sáo tiến thẳng đến biển La Loan.
(13)
Đào hồng mưa sạch, lộ đào non
Gió đưa cành liễu xanh tha thướt
Trong vầng mây trắng nhiều hình lạ
Trên mặt nước trong, cây cổ xanh.
(Vũ tẩy đạm hồng đào ngọc nộn
Phong xuy thiển bích liễu ti khinh
Bạch vân ảnh lý quái thạch lộ,
Lục thủy quang trung, cổ mộc thanh,)
(14)
Ẩn mình không vết, lại không giấu
Nào khác không y như đang tắm
Kiếng xưa không bóng nhưng soi được
Khói sương hòa dịu ánh sáng thu.
(Tàng thân vô tích, cánh vô tàng
Thoát thể vô y tiện xí đang,
Cổ kính bất ma hoàn tự chiếu
Đạm yên hòa vụ thấp thu quang).
(15)
Việc tốt ùn ùn đến, đến mãi
Không cần, tạo hóa vẫn an bày
Lá rừng vàng rụng, nước cuốn trôi,
Mây trắng ngang hang, gió cuốn lôi
Một tiếng nhạn xa, tình niệm dứt
Hơi sương vừa động, thức tan rồi
Bạch dương có chổ vượt hơn người
Ngày đêm bới tro, lò vẫn lạnh.
(Hảo sự dôi dôi điệp điệp lai
Bất tu tạo hóa dữ an bày,
Lạc lâm Hoằng diệp thủy thôi khứ
Hoành cốc bạch vân phong quyển hồi
Tái nhạn nhất thanh, tình niệm đoạn
Sương trung tài động thức sơn tồi.
Bạch dương cánh hữu qua nhân xứ
Trú dạ hàn lô bát tử hôi.)
(16)
Gió lộng tâm lung lay
Mây sinh tánh nhiễm trần
Nếu sáng, thấy việc nay
Hết mờ “ bổn lai nhân’’
(Phong động tâm dao thụ
Vân sinh tánh khởi trần
Nhược minh kim nhựt tự
Khước muội “Bổn lai nhân’’.)
(17)
Phật do vô tâm mà ngộ
Tâm do có Phật hóa mê
Tâm Phật nơi thanh tịnh
Vượn rừng hú ngoài mây
(Phật vị dương tâm ngộ
Tâm nhân hữu Phật mê
Phật tâm thanh tịnh xứ
Vân ngoại dã viên đề.)
---o0o---
1. Pháp Bất Nhị
Thiền sư Hương Hải có nhiều bài kệ nói về pháp “Bất Nhị” của Chư Tổ thời trước :
(18)
Thiện đã từ tâm sinh
Ác cũng không lìa tâm
Thiện ác chính do ta
Nơi tâm không thiện ác
Bỏ ác đưa đi đâu ?
Giữ thiện ai người giữ ?
Thương cho người nhị kiến
Theo duyên chạy hai đầu
Nếu ngộ vốn “ Tâm không”
Lo gì lỗi lầm xưa.
(Thiện ký tòng tâm sinh
Ác khởi ly tâm hữu
Thiện ác thị ngã duyên
Ư tâm thực bất hữu.
Xả ác tống hà xứ ?
Thủ thiện kim thùy thủ ?
Thương ta nhị kiến nhân
Phan duyên lưỡng đầu tẩu
Nhược ngộ bản vô tâm
Thùy hối tòng tiền cửu.)
(19)
Ngọc đẹp ẩn đá cuội
Hoa sen mọc từ bùn,
Nên biết: Nơi phiền não
Ngộ được tức bồ đề.
(Mỹ ngọc tàng ngoan thạch
Liên hoa xuất ứ mê,
Tu tri: phiền não xứ
Ngộ thị tức bồ đề ! ).
(20)
Trở ngại không do tường vách
Chỗ thông không nơi hư không
Nếu ai cũng hiểu như thế,
Tâm và tướng xưa nay đồng
(Ngại xứ phi tường bích
Thông xứ một hư không
Nhược nhân như thị giải
Tâm sắc bổn lai đồng.)
(21)
Huyền quang lặng chiếu khắp ta bà
Phàm thánh lòng thiêng giống một nhà
Một niệm, không sinh toàn thể hiện,
Sáu căn vừa động, áng mây lòa
Diệt trừ phiền não càng thêm hại
Muốn vượt chân như thảy cũng tà.
Tùy thuận mọi duyên không trở ngại
Niết bàn, sinh tử, tức “Hoa không”.
(Huyền quang tịch chiếu biến hà sa
Phàm thánh hàm linh cộng nhất gia
Nhất niệm bất sinh toàn thể hiện
Lục căn tài động bị vân già,
Đoạn trừ phiền não trùng tăng bệnh
Hướng theo chân như tổng thị tà.
Tùy thuận chúng duyên vô quái ngại
Niết bàn, sinh tử thị “không hoa”).
(22)
Vọng thân đến, gương soi bóng
Bóng cùng vọng, thân không khác
Nếu muốn bỏ bóng lấy vọng,
Nào biết thân vốn hư ảo.
Thân vốn không, khác chi bóng
Không thể một “có” một “không”
Nếu muốn giữ một bỏ một,
Vĩnh viễn xa lìa chân lý.
Nếu còn thương thánh ghét phàm
Nổi chìm trong biển sinhtử.
Phiền não do tâm mà có,
Tâm “không” phiền não ở đâu ?
Không còn phân biệt, chấp tướng
Tự nhiên mau chóng đắc đạo.
(Vọng thân lâm kính chiếu ảnh
Ảnh dữ vọng thân bất thu,
Đản dục khử ảnh lưu vọng
Bất tri thân tự bản hư.
Thân bản dữ ảnh bất dị
Bất đắc nhất hữu nhất vô,
Nhược dục tồn nhất xả nhất
Vĩnh dữ chân lý tương sơ.
Cánh nhược ái thánh tắng phàm
Sinh tử hải lý trầm phù,
Phiền não nhân tâm cố hữu
Vô tâm phiền não hà cư ?
Bất lao phân biệt thủ tướng
Tự nhiên đắc đạo tu du.)
---o0o---
2. Tâm ( Vô Niệm )
Tổ sư Bồ Đề Đạt Ma nhấn mạnh về “vô tâm“, Lục Tổ Huệ Năng gọi là “vô niệm“, thiền sư Minh Châu Hương Hải cũng dạy cho đệ tử về “vô tâm’’ , “vô sự’’ như Chư Tổ thời xưa :
Tìm trâu phải theo dấu
Học đạo quí “vô tâm’’
Dấu còn trâu nào mất
Vô tâm đạo dễ tầm.
(Tầm ngưu tu phóng tích
Học đạo quí “vô tâm’’
Tích tại ngưu hoàn tại
Vô tâm đạo dị tầm.)
(24)
Lầu Nam tĩnh tọa một lò hương
Lặng lẽ suốt ngày, không niệm lự
Không thể ngay tâm, trừ vọng tưởng
Chỉ do “vô sự’’ khá lo lường.
(Nam Đài Tĩnh tọa nhất lô hương
Chung nhựt ngưng nhiên niệm lự vong
Bất thị tức tâm, trừ vọng tưởng,
Chỉ duyên “ vô sự “ khá tư lương, )
(25)
Tất cả “vô tâm”, tự tánh giới
Tất cả “vô ngại”, tự tánh huệ,
Không thêm không bớt ấy kim cương
Thân đến thân đi, vốn chánh định.
(Nhất thiết vô tâm tự tánh giới
Nhất thiết vô ngại tự tánh huệ
Bất tăng bất giảm tự kim cương
Thân khứ thân lai bản tam muội.)
(26)
Khổng Tử không biết chữ
Đạt Ma chẳng hiểu thiền
Huyền diệu không lời nói
Cốt đừng vọng lưu truyền.
(Phu tử bất thức tử
Đạt Ma bất hội thuyền,
Huyền diệu vô ngôn ngữ
Thiết mạc vọng lưu truyền.)
(27)
Vượn lẽ hú rơi trăng ngàn núi
Khách quê ngâm suốt năm canh tàn
Cảnh ấy giờ đây ai biết được,
Thiền tăng ngồi chốn mây trắng cao.
(Cô viên khiếu lạc thiên nham nguyệt
Dã khách ngâm tàn ngũ dạ đăng,
Thử cảnh thử thời thùy hội đắc
Bạch vân thâm xứ tọa thiền tăng.)
(28)
Thấy vật liền thấy tâm
Không vật tâm không hiện
Mười phần nghẹn được thông
Chân tâm thải biến khắp
Nếu hiểu biết nảy sinh
Lại thành thấy điên đảo
Gặp cảnh thường vô tâm
Mới thấy mặt bồ đề.
(Kiến vật tiện kiến tâm
Vô vật tâm bất hiện
Thập phần thông tắc trung
Chân tâm vô bất biến.
Nhược sinh trí thức giải
Khước thành đão điên kiến
Đổ cảnh năng vô tâm
Thùy kiến bồ đề diện.)
(29)
Cảnh vốn không đẹp xấu
Đẹp xấu bởi do tâm,
Nếu tâm không gượng đặt
Vọng tình khởi nơi nào?
(Cảnh duyên vô hảo xú
Hảo xú khởi u tâm,
Tâm nhược bất cưỡng danh
Vọng tình hà xứ khởi?)
---o0o---
3. Chân Tâm
Khi thiền định đạt đến cảnh vô tâm, tức thấy chân tâm, thiền sư Minh Châu Hương Hải giảng giải về chân tâm bằng các bài kệ của Chư Tổ xưa :
(30)
Nhãn thức tắt theo màu sắc nọ
Nhĩ thức tan đi khi tiếng dứt,
Về nguồn chẳng giữ ý chỉ riêng
Hôm qua, ngày nay, cảnh vẫn thế.
(Nhãn quang tùy sắc tận
Nhĩ thức trục thanh tiêu
Hoàn nguyên vô biệt chỉ,
Tạc nhựt dữ kim triêu.
Ánh mắt không theo sắc
Nhĩ thức không theo tiếng
Về nguồn đâu ý khác
Hôm qua, sáng nay đồng).
(31)
Mãnh trăng ngâm đưới đầm nước lạnh
Đám mây con ánh giữa trời xanh,
Nếu như người đã đạt đạo
Thật là tin tốt của chân tâm.
(Phiến nguyệt tẩm hàn đàm
Vi vân ánh bích không,
Nhược ư đạt đạo nhân
Hảo cá chân tiêu tức.
Mãnh trăng ngâm đầu lạnh
Áng mây ánh trời xanh
Nếu như người đạt đạo
Tin ấy là tin thật).
(32)
Xét chân tâm, chân tâm không tướng
Xét cùng vọng, vọng tưởng không hình
Quán chiếu lại thật kỷ tâm mình
Mới biết tâm cũng chỉ mượn danh
(Suy chân, chân vô tướng
Cùng vọng, vọng vô hình
Phản quan duy cùng tâm
Tri tâm diệc giả danh.
Xét chân, chân không tướng,
Tìm vọng, vọng không hình
Quán lại tâm tìm xét
Biết tâm cũng giả danh).
---o0o---
4.Tục (Thỏng Tay Vào Chợ)
Trong Thiền tông, theo ảnh hưởng Phật giáo Đại thừa, thiền giả sau khi đắc pháp, thường “nhập thế”, tức trở lại sống trong cuộc đời để hoằng hóa, phổ độ chúng sinh, hành theo hạnh Bồ tát. Các bậc đạt đạo sống chung trong xã hội với người đời mà không bị nhiễm ô, tức “cư trần bất nhiễm”, chư vị sống lẫn lộn trong xã hội, tùy phương tiện, tùy hoàn cảnh mà phổ độ chúng sinh, không màng thiện ác, phải trái, sống tự tại trong thế gian, sống giữa cuộc đời phiền não và khổ cực nhưng vẫn thanh nhàn, tự tại vượt cả không gian và thời gian.
Thiền sư Minh Châu Hương Hải còn kể lại các bài kệ giảng giải về vấn đề này như sau:
(33)
Một chiếc thuyền con giữa nước trời
Múa mái chèo phân điệu cung thương
Núi mây, trăng nước trôi lùi mãi,
Giấc mộng Trang Chu vẫn kéo dài.
(Nhất diệp thiên chu phiếm diễu mang
Chỉ nhiêu vũ triệu biệt cung thương
Vân sơn thủy nguyệt khước đà khước,
Doanh đắc Trang Chu nhất mộng trường.)
(34)
Trúc gầy, thông cao, nước hương rơi
Gió thoảng, trăng mờ, hơi mát đến,
Nào biết ai trụ Hư Thanh tự?
Ngày ngày chuông tiễn bóng chiều tà.
(Xấu trúc trường tùng trích thủy hương
Lưu phong sơ nguyệt độ vi lương,
Bất tri thùy trụ Hư Thanh tự,
Mỗi nhựt chung thanh tống tịch dương.)
(35)
Viếng qua thành thị, nghỉ chùa chiền
Tùy cơ ứng biến lẽ tự nhiên.
Trăng xuyên cửa sổ chiếu giường thiền
Gió thổi thông reo khách ngủ yên.
Lâu đài rực rỡ màu sáng diệu
Chuông cổ truyền xa tiếng diệu huyền
Ba đạo nguyên lai cùng một thể,
Tùy duyên đâu có lệch bên nào.
(Thành thị du lai ngụ tự chiền
Tùy cơ ứng biến mỗi thời thiên.
Song triêu nguyệt đáo thiền sàng mật
Tùng tiêu phong xuy tĩnh khách miên
Sắc ảnh lâu đài minh sắc diệu,
Thanh truyền chung cổ điễn thanh huyền
Nguyên lai Tam giáo đồng nhất thể
Nhậm vận hà tằng lý hữu thiên.)
(36)
Thượng sĩ thường đến bát nhã rừng
Cư trần không nhiễm đạt tâm thiền
Liêm khê, Trình Hạo thông hiểu rõ,
Tô Tử, Hàn Văn hiểu diệu âm
Muôn ngàn cảnh vật, bày dễ thấy
Tạo hóa một bầu khó truy tầm.
Nguồn nho thâm thẩm lên càng rộng
Biển pháp trùng trùng xuống lại xâu.
(Thượng sĩ thường du bát nhã lâm
Trần cư bất nhiễm liễu tâm thiền
Liêm Khê, Trình thị minh cao thức,
Tô Tử, Hàn Văn khế diệu tâm
Vạn tượng sum la cao dị hiển
Nhất biểu tạo hóa mật nan tầm.
Nho nguyên đãng đãng đăng đi khoác
Pháp hải trùng trùng nhập chuyển thâm.)
Ngoài ra, thiền sư Minh Châu Hương Hải cũng thường đọc lại các bài kệ xưa của Chư Tổ để dạy đồ chúng:
(37)
Sư Tử trong hang sư tử
Chiên đàn tong rừng chiên đàn
Thân người nhờ có trời đất rộng
Muôn sự không lo ngày tháng dài.
(Sư tử quật trung sư tử
Chiên đàn lâm lý chiên đàn,
Nhân thân hữu lại càn khôn khoát
Vạn sự vô ưu nhựt nguyệt trường.)
(38)
Được nước, rồng thời thêm ý khí
Gặp non, cọp mới trổ oai hùng
Người về nước lớn thành cao quý
Nước đến Tiêu Tương một sắc trong.
(Long đắc thủy thời thâm ý khí
Hổ phùng sơn xứ trưởng uy năng
Nhân qui đại quốc phương tri quý
Thủy đáo Tiêu Tương nhất dạng thanh.)
---o0o---
5.Các Bài Giảng Về Thiền
Thiền sư Minh Châu Hương Hải giảng giải về thiền định, vô tâm, chân tâm… bằng những bài văn như sau:
“Pháp thân không tướng nên không thể tìm thấy bằng thanh âm sắc tướng, diệu đạo đáng bàn không thể lấy chữ nghĩa mà hiểu được. ví như siêu được Phật, vượt được Tổ vẫn còn rơi xuống cái thang khuôn phép. Dù cho mãi giảng pháp, mãi bàn “Huyền”, chung qui cũng chỉ mỏi miệng, phỏng lưỡi. Cần phải: không màng đến công đức, không để ý đến thân xác, tu hành khắc khổ như “cây khô” “núi đá lạnh”. Cần phải giống như “ngựa gỗ”, như “người nằm mộng” không chút tỉnh thức, rồi mới có thể buông thõng tay tiến vào chùa, “thõng tay vào chợ”, chuyển thân sang loài khác và không còn phàn nàn :
“Vô lậu quốc trung, lưu bất trụ
Khước lai yên ổ ngọa hàn sa”
(Trong cõi không phiền não mà không chịu ở ; lại đến vùng đất khói sương mù mịt mà nằm nơi bãi cát lạnh).
Thiền sư Hương Hải giảng:
“Quãng trước không có phiền não, đâu cần phải trừ bỏ, quãng giữa không có tự tánh nào cần phải giữ, quãng sau không có Phật, cần gì phải tu thành Phật nữa, như thế gọi là Tam Đế Đoạn Tuyệt (ba quãng đoạn tuyệt) hay gọi là “Tam nghiệp thanh lương” (ba nghiệp thân khẩu ý được trong sạch mát mẻ).
Thiền sư Hương Hải cũng nói:
“Tâm ta thoáng nghĩ đến một tí thì đã thuộc về quá khứ, tâm ta chưa nghĩ đến thì gọi là vị lai, không là tâm vị lai thì là tâm quá khứ, như vậy thì chỗ nào là tâm hiện tại?
Người học Phật nên biết: Nếu một niệm vừa khởi ra là không bao giờ lấy lại được, như thế đã là quá khứ. Hiện tại vừa nghĩ đến đã là quá khứ. Vị lai cũng vậy, vừa nghĩ đến đã là quá khứ rồi.
Vì vậy miệng niệm Phật không ngừng, niệm niệm ứng liền với nhau (tức là niệm đến cảnh giới vô biệt niệm, đạt cảnh giới Phật), không còn phân biệt quá khứ, hiện tại, vị lai, đó là cái cửa của phương tiện rất cần thiết”.
Thiền sư Hương Hải nói: “Lúc mặt trời mọc, sáng khắp thiên hạ, nhưng khoảng không gian ở hư không vẫn chưa hề sáng, lúc mặt trời lặn, tối khắp thiên hạ, nhưng khoảng hư không vẫn chưa hề tối. Cảnh sáng tối ở thế gian cướp lẫn nhau, nhưng tánh của quãng hư không vẫn tự nhiên mênh mông như vậy”.
Tâm Phật và tâm chúng sinh vẫn thế, nếu coi Phật cho là trong sạch sáng sủa, coi chúng sinhlà dơ bẩn, đục tối thì trải nhiều kiếp như số các sông Hằng nữa, chung qui cũng không trở thành bồ đề được.
Ba đời chư Phật (quá khứ, hiện tại, vị lai) đều ở trong thân ta, chỉ vì con người bị tập nhiễm thói đời làm cho mờ tối đi, những ngoại cảnh làm ngăn trở, khiến ta thành mê muội. Nếu trong tâm ta được “vô tâm” (vô niệm) là Phật quá khứ, trong lặng lẽ mà khởi tác dụng là Phật vị lai, tùy cơ ứng vật là Phật hiện tại. Nếu ta thanh tịnh không ô nhiễm trần tục, đó là Phật ly cấu. Nếu ta ra vào không gì làm trở ngại là Phật thần thông, đến đâu cũng an vui là Phật tự tại, một tâm trong sáng là Phật quang minh, tâm đạo bền chặt là Phật bất hoại, sự biến hóa không cùng ấy chỉ do một lẽ “chân như” mà thôi (chân tâm).
Chí đạo gốc ở tâm pháp, tâm pháp gốc ở vô trụ. Bản thể của tâm và chân tướng của tánh vốn lặng lẽ, không phải có mà cũng chẳng phải không, không có sinhcũng không có diệt, ta tìm nó không thấy mà bỏ nó, nó cũng không lìa mình ra. Nếu ta mê theo các cảnh sắc của nó (hiện tượng) thì tâm ta phải khổ sở, mê lầm, bối rối, nhưng nếu ta biết được chân tánh thì tâm tinh thông, sáng suốt, thênh thang. Tuy là tâm tức Phật, Phật tức tâm nhưng chỉ có tâm nào trong lặng (thanh tịnh) thì mới biết (chỉ có người chứng ngộ mới biết).
Nhưng nếu tâm có “chứng”, có “biết” thì mặt trời trí tuệ kia sẽ bị chìm lặn ở nơi cõi đất có. Còn như tâm mờ mịt, không chiếu, không sáng thì đám mây hôn trầm che lấp cửa “không”. Chỉ có tâm không sinhmột niệm nào thì mới không còn ngăn cách trước sau, chân táng đứng riêng thể chiếu đó thì ta và người nào có khác.
Nhưng “mê” đối với “ngộ”, “ngộ” trông vào “mê”; “vọng” đối với “chân”, “chân” nương nơi “vọng”. Nếu ta tìm “chân” mà bỏ “vọng” thì như người chạy trốn bóng, mà làm khổ nhọc thân. Nhưng nếu ta nhận “vọng” chính nơi “chân”, như người vào chỗ mát thì bóng tự mất. Nếu tâm không vọng chiếu thì vọng niệm tự hết.
Từ cái “biết lặng lẽ” (tịch tri) mà khởi dụng thì các hạnh thiện phát khởi. Vì vậy, cái ngộ tịch tĩnh thật ra là không tịch, cái “chân tri” dường như vô tri. Nếu lấy tâm nhất trí, không phân chia “tịch” và “tri” thì hợp với lẽ huyền diệu, dung thông nhau.
Có và không đều chấp , không mắc, phải và quấy đều quên thì hoa bát nhã liền nở, tâm nào cũng đều thành Phật, không tâm nào chẳng phải là tâm Phật, chỗ nào cũng là đạo, không chỗ nào không phải là cõi Phật.
Thế nên “Chân” với “Vọng”, “Vật” với “Ngã” đều do ở một tâm ta, Phật và chúng sinh đều cùng chung nhau một tâm ấy. Nếu “mê” thì người chạy theo “sự vật” (pháp), nhưng sự vật thì muôn ngàn sai khác nên người không giống nhau. Nếu “ngộ” thì sự vật (pháp) theo người , người đem một trí mà dung hòa muôn cảnh. Đến đó thì hết chỗ nói năng, bặt đường tư tưởng, còn gì để nói “nhân” trước “quả” sau (không còn nhân quả - giải thoát).
Nếu tâm thể rỗng lặng thì còn gì là người này giống kẻ kia khác, chỉ còn một tâm trong sáng, tăng giảm dung hòa. Như tấm gương trong sáng, tuy không có hoa mà bóng hoa hiện, như gương vốn vô tâm, tuy thấy hình bóng chiếu trong gương mà gương vẫn thường không vậy.
Thiền sư Hương Hải cũng nói:
Trí có thể chiếu sáng được là do nơi làm hóa không tất cả ngoại cảnh đã qua, cảnh và trí đều tịch diệt thì tâm và lự (suy tư) đều yên lặng. Đó là con đường cốt yếu để trở về nguồn gốc thanh tịnh của chân tâm xưa. Tuy nhiên lặng lặng có thể sinhra “không vô ký”. Tỉnh tỉnh có thể sinhra loạn tưởng.
Thiền sư Hương Hải cũng nói:
Người ta phần nhiều đều cho là “sự” làm ngăn trở “lý”, “cảnh” làm ngăn trở “tâm”, nên thường muốn trốn tránh “cảnh” để cho yên “tâm”, bỏ “sự” để lấy “ lý”, nhưng họ không biết rằng: chính “tâm” làm ngăn trở “cảnh”, “lý” làm ngăn trở “sự”, ta chỉ cần làm tâm hóa không thì cảnh tự nhiên hóa không, nếu làm cho lý yên lặng thì sự cũng tự nhiên hóa yên lặng. Chớ để tâm nghĩ trái ngược lại.
Thiền sư Minh Châu Hương Hải cũng thường nhắc lại những diệu ngữ của bậc cao tăng xưa để dạy đồ chúng:
Muốn cần thấy Phật cứ nhận biết nơi chúng sinh, chỉ vì chúng sinh mê không tự biết có Phật, chứ Phật đâu có làm mê chúng sinh. Ngộ được tánh của mình thì chúng sinh là Phật, nếu mê mờ tự tánh của mình thì Phật là chúng sinh. Giữ được tự tánh bình đẳng thì chúng sinh là Phật, để tự tánh mình gian hiểm thì Phật là chúng sinh. Tâm ta vốn sẵn có Phật, còn phải đi tìm Phật ở nơi nào nữa?
Kinh có viết: “Tâm sinh thì các pháp khác sinh, tâm diệt thì các pháp diệt. Phàm phu tức là Phật, phiền não tức là bồ đề, niệm trước mê lá phàm phu, niệm sau giác là Phật. Niệm trước chấp cảnh là phiền não, niệm sau ly cảnh là bồ đề.
Chân tâm tự có thể, không do ta bịa đặt ra, nó trong suốt như hư không, trong sạch tròn sáng, không thể lấy cái “có” cái “không” hay nơi này chốn nọ mà có thể xét tột được chỗ u huyền của nó,cũng không thể lấy trí khôn và ngôn nhữ mà bàn đến chỗ huyền diệu của nó. Chỉ có ai ngộ được “chân tâm” thì hiểu ngay ở nơi tự mình, ví như muôn thứ hương thơm, chỉ đốt một lò hương là hiểu hết mùi thơm của nó, như vào biển lớn tắm, chỉ cần hớp một ngụm nước là biết hết toàn vị của biển lớn đó.
Chân tâm thật thâm sâu lặng lẽ, giác ngộ thì bụi trần lắng sạch, tâm thể trong ngần, dứt hết mối manh, danh tướng của ngoại cảnh, sạch hết những năng sở ở trong tâm. Bởi ban đầu không giác (bất giác) nên tâm khởi ra vọng động , chiếu soi lại tự tâm, theo cái chiếu soi ấy mà sinh ra tâm trần. Như tấm kiếng hiện ra hình tượng, thoát có thân căn. Từ đó, chân tâm bị dời đổi, căn tánh bị sai lạc, chấp theo sắc tướng, đuổi theo danh lợi , chứa mãi những vọng trần ứ đọng, kết mãi những sóng thức liên miên, đem buộc gói chân giác vào chốn mê, đắm chìm mê muội trong ba cõi ( dục giới, sắc giới, vô sắc giới), làm mù lòa con mắt trí tuệ ở trong ngõ tối, khúm núm cúi lòn trong chín loài. Ở trên cõi không sinhdiệt bỗng dưng luống chịu kiếp luân hồi.Trong pháp giải thoát mà tự chuốc sự trói buộc nơi thân, như con tầm xuân tự làm kén giam mình, như con thiêu thân tự nhào vô đèn thiêu xác, đem những sợi dây mê mờ buộc lấy nghiệp căn khổ sở, dùng đôi cánh của lòng tham mù quáng, toan dập tắt vòng lửa sinh tử.
Lại có những kẻ tà căn ngoại nhập, cùng những kẻ tiểu khí mưu mô, chúng không hiểu rõ nguồn bệnh của sinhtử, không biết gốc chung của nhân ngã (ta và người), chỉ muốn tránh chỗ huyên náo, bỏ nơi hoạt động, cố phá từ cái tướng, tách từng mảng bụi của mọi vật để tìm hiểu biết. Làm như thế, tuy chỗ tĩnh lặng cốt ngộ lý không, nhưng không biết đó cũng chỉ là cái lối làm chôn vùi chân tánh, lấp mất chân giác. Như thế chẳng khác nào kẻ thấy ngọn đèn có những tia sáng xanh đỏ, muốn không thấy những tia ấy bèn đi tắt ngọn đèn, kẻ trong thấy bóng theo dõi thân mình dưới bóng mặt trời, bèn chạy ngoài trời để tránh khỏi bóng, như thế chỉ lao nhọc tinh thần, tốn hao sức lực, chẳng khác gì gánh nước đổ vào đóng băng, vác củi đem bỏ vào đám lửa đang cháy. Có biết đâu những tia sáng trong ngọn đèn kia là do mắt bệnh, bóng đuổi theo mình vốn là bóng mình. Nếu chữa khỏi bệnh lòa ở mắt, thì những tia sáng tự mất, diệt thân huyễn này thì bóng nọ không còn.
Nếu biết quay ánh sáng soi trở lại nơi mình, bỏ ngoại cảnh mà xem ở tự tâm, thì Phật nhãn sáng suốt, bóng nghiệp tự tan, pháp thân hiện ra, những vết trần tự diệt. Ta phải lấy lưỡi gươm trí tuệ của tâm tự giác cắt đứt những mối dây phiền trược trong lòng để biến nó thành chân tâm. Phải dùng mũi giáo trí tuệ của chân như chặt tan những lớp bụi trần kết thành lưới võng che mờ mắt chúng ta. Đó là cái tông chỉ “cùng tâm”, cái chân truyền “đạt lý” đó vậy.
---o0o---
III. Truyền Thừa Của Tổ Sư Minh Châu Hương Hải
Theo tiểu sử của Tổ sư Minh Châu Hương Hải, năm 1682, Tổ sư rời Đàng Trong ra Đàng Ngoài dẫn theo hơn 50 đệ tử, như vậy Tổ sư Hương Hải có rất nhiều đệ tử, một số theo ra Đàng Ngoài, có thể vẫn còn một số khác vẫn còn lại hoằng hóa ở Đàng Trong.
Tổ sư Hương Hải bị Chúa Nguyễn Phước Tần bắt vì nghi có liên lạc với Chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, sau đó Tổ sư bỏ Đàng Trong ra
Đàng Ngoài. Tổ lại vẽ bản đồ Đàng Trong cho Chúa Trịnh… Việc này khiến cho cả Chúa Nguyễn và Chúa Trịnh đều nghi ngờ Tổ sư Hương Hải có hoạt động chính trị, hơn nữa phái Thiền Trúc Lâm chủ trương “Nhập thế hành đạo”, càng khiến cho các Chúa Nguyễn và Trịnh nghi ngờ Tổ Hương Hải và các thiền sư phái Thiền Trúc Lâm đã có xen vào Chính trị khi hoằng hóa. Vì lý do đó mà cả Chúa Nguyễn và Chúa Trịnh không tin ở phái Thiền Trúc Lâm nữa mà bắt đầu hỗ trợ cho phái thiền khác hoằng dương Phật pháp.
- Chúa Hiền Nguyễn Phước Tần và Chúa Nghĩa Nguyễn Phước Trăn (Nguyễn Phước Thái) đã giúp cho Tổ sư Nguyên Thiều - Siêu Bạch phát triển phái Thiền Lâm Tế ở Đàng Trong, ngoài ra, có lẽ vì thiếu tăng sĩ nên Chúa Nguyễn Phước Trăn (1687-1691) đã phải nhờ Tổ sư Nguyên Thiều trở về Trung Quốc thỉnh các danh tăng qua Đàng Trong hoằng hóa. Tổ sư Nguyên Thiều đã hoàn thành sứ mạng này một cách tốt đẹp, giúp cho phái Thiền Lâm Tế phát triển mạnh ở Đàng Trong từ đó và tiếp tục truyền mãi cho đến hiện nay.
- Chúa Trịnh Tạc, Trịnh Căn, Trịnh Cương đã hỗ trợ cho Tổ sư Viên Văn - Chuyết Chuyết và các đệ tử là Minh Hành - Tại Tại, Minh Lương - Nguyệt An phát triển phái Thiền Lâm Tế ở Đàng Ngoài. Các vị này và Thiền sư Chân Nguyên - Chánh Giác (1647-1726) đã kết hợp tinh hoa của Phái Thiền Lâm Tế ở Đàng Ngoài và phái Thiền Trúc Lâm - Yên Tử tạo nên một sự khởi sắc mới cho Phật giáo Đàng Ngoài, đưa đến sự phục hưng và phát triển mạnh của Phật giáo ở Đàng Ngoài và sự xuất hiện của truyền thống “Trúc Lâm-Lâm Tế” hay “Trúc Lâm song hành”.
Tổ sư Minh Châu Hương Hải truyền thừa theo bài kệ truyền phái của Tổ sư Trí Bảng – Đột Không (Lâm Tế ,đời 25).
Trí Huệ Thanh Tịnh
Đạo Đức Viên Minh
Chân Như Tánh Hải
Tịch Chiếu Phổ Thông.
Tổ sư Minh Châu Hương Hải có 70 đệ tử đắc pháp như : Chân Lý - Hiển Mật ( hiệu Viên Thông ), Chân Tạng - Mật Hạnh, Chân Chiếu - Hoa Mỹ, Chân Tông - Quảng Trí, Chân Quí - Phổ Ứng, Chân Truyền - Quang Tán, Chân Tịnh - Khổ Hạnh , Chân Thành - Bồ đề, Chân Thường, Chân Cảnh, Chân Thước, Chân Ý, Chân Thị, Chân Thuần, Chân Bình, Chân Đẳng, Chân Pháp, Chân Quảng, Chân Trí, Chân Bảo, Chân Đông, Chân Dung, Chân Quả, Chân Viên , Chân Kinh, Chân Tình, Chân Quang …….
* Pháp Tông hàng Chữ “Như “gồm có khoảng 200 vị nổi tiếng:
- Tăng Thống Như Nguyệt - Hoa Quang ( Kế thế trụ trì chùa Nguyệt Đường ), Tăng Thống Như Toàn .
- Tăng Chính: Như Sơn , Như Viên
- Tăng Phó: Như Túc , Như Nhựt , Như Thừa , Như Thuyên, Như Cảnh .
- Thiền Sư: Như Đức , Như Tâm, Như Khoảng, Như Đài, Như Bảo, Như Huyền ,Như Nhẫn, Như Biền, Như Đề, Như Kiên, Như Phái, Như Mật, Như Hải, Như Khanh, Như Nghiệm,Như Liêu, Như Khôi, Như Hạnh.(Liễu Tiên ).
* Hàng Chữ “Tánh” gồm có:
- Tăng Thống: Tánh Thanh.
- Tăng Chính: Tánh Hằng.
- Tăng Phó: Tánh Sáng.
- Thiền Sư: Tánh Liễn, Tánh Kế, Tánh Khả (Đạm Hạnh ), Tánh Lâm, Tánh Duệ, Tánh Thước, Tánh Thường, Tánh Mẩn, Tánh Nhu ,Tánh Đỉnh, Tành Bạch, Tánh Ánh, Tánh Trác, Tánh Đức, Tánh Trí, Tánh Lãng, Tánh Năng, Tánh Tiếp, Tánh Phụng, Tánh Tuyên, Tánh Không, (Huyền Thiện ) Tánh Viên .
* Hàng Chử “Hải” Gồm có:
- Tăng Phó: Hải Bồi , Hải Triều .
- Thiền Sư Hải Đàm Kế thừa trụ trì Chùa Nguyệt Đường .
- Thiền Sư: Hải Đường, Hải Nhã, Hải Đồng, Hải Diên, Hải Khoát, Hải Trung, Hải Liêm … Ngoài ra, ở Đàng Trong, Tổ sư Hương Hải còn có nhiều đệ tử , nhưng vì Tổ ra Đàng Ngoài (theo Chúa Trịnh ) , nên các vị này phải cầu pháp sang phái Thiền Lâm Tế.
---o0o---
Chùa Nguyệt Đường
BIA TRÙNG TU CHÙA NGUYỆT ĐƯỜNG
PHẠM THỊ HƯƠNG LAN
Viện Nghiên cứu Hán Nôm
Chùa Nguyệt Đường xưa vốn nằm trên nền đất của Văn miếu Hưng Yên bây giờ, do trải qua bao binh đao khói lửa nay chùa không còn nữa. Trong một dịp đi sưu tầm tài liệu về Thiền sư Hương Hải, chúng tôi có dịp ghé vào thăm ngôi chùa Xích Đằng ở thị xã Hưng Yên tình cờ bắt gặp một tấm bia đá có ghi tên Trùng tu Nguyệt Đường. Có lẽ đây cũng là sự may mắn của chúng tôi vì tên tuổi của vị Thiền sư Hương Hải đã gắn liền với sự nổi tiếng của chùa Nguyệt Đường. Chùa Nguyệt Đường ở thế kỉ XVII nổi tiếng là danh lam thắng cảnh của vùng đất phố Hiến xưa, nó từng được phong là "Quốc tự" được vua Lê chúa Trịnh liên tục viếng thăm và rất nhiều tao nhân mặc khách, các nhà Nho nổi tiếng đề thơ vịnh.
Về lai lịch ngôi chùa này đã được ghi chép trong các sách như Hương Hải thiền sư ngữ lục của Hương Hải thiền sư. Trong đó có nói rằng "Năm Canh Thìn 1700 sư sang ở chùa Nguyệt Đường, có hơn 70 đệ tử theo học, tất cả đều tinh thông kinh luật. Sư cho trùng tu chùa Nguyệt Đường rộng lớn trang nghiêm. Chính ở chùa Nguyệt Đường sư đã giáo hóa và làm phục hưng thiền phái Trúc Lâm". Còn cảm nhận của danh y Lê Hữu Trác trong sách Thượng kinh ký sự có ghi lại rằng" Chùa ấy ở trên núi có cửa mở ra đường lớn, một bên đằng sau cửa này là một cái ao hình bán nguyệt. Ở bờ ao cây cối rủ bóng liên lu, tùng bách che mặt đất. Phía trước có một bức tường gấm, tường có cửa thông ra một con đường thẳng. Về phía đông và phía tây sân chùa, có hai hòn núi đất, trên núi đều xây gác chuông. Ở giữa xây một cung điện rộng, nhà cao, nhà chơi mát sáng sủa, nhà gác tranh vanh, bốn phương tám mặt đều có tường vẽ tranh huy hoàng, những trấn song quanh co, thông nhau ngang dọc. Hoa lạ đua nở, ngáng quải mắc míu nơi thềm đá trắng. Nghìn cửa thông nhau, một lối nối liền. Tôi du ngoạn giờ lâu, than rằng: "thật là tiếng đồn không sai, đất thần tiên cũng không hơn được vậy! chỉ còn hiềm sức người không làm sao đi đến chỗ hoàn toàn như thiên nhiên được, cho nên tao nhân mặc khách say mê cái khí vị của chốn lâm tuyền từ lâu là vì thế".
Chúng tôi xin được phép phiên âm dịch nghĩa tấm bia này.
Phiên âm:
TRÙNG TU NGUYỆT ĐƯỜNG
Phù bi giả, bạch thạch sa hình thanh sơn triệu tạo, sở dĩ di tích sùng Phật pháp thọ quốc mạch, vĩnh viễn kì truyền dã. Nãi Tây phương Tịnh thổ tam bối cảnh đồ đệ nhất cực lạc dư.
Tiểu tử khâm văn. Di Đà ứng thế, thị hiện thất trùng bảo thụ, tùy phương ngũ sắc kim hoa, chỉ tứ thập bát chi nguyện, môn khai nhất thập lục chi quan pháp, hiển dương quán thực.
Tam tôn ngọc tọa nguy nguy, tín thụ phụng hành, cửu phẩm liên đà ngật ngật, xứ xứ Như Lai thuyết pháp, thời thời Bồ Đề tuyên dương, kì liên diệp hóa. Thần ngộ vô lượng, thọ bất sinh bất diệt, vạn kiếp trường tồn, trần ư cơ thiền, an thê thắng hĩ. Lãm quan diệu dụng huyền cơ thiện giác pháp tự Minh Châu, lưu đăng pháp tự Chân Lý, tục diễm pháp tự Như Nguyệt đẳng chí đạo cảm hà (…) hồng từ, cấu tác hưng công, kiến diên phật sự, nghi khai chỉnh túc, vĩnh phiến nhân phong, dương giác hải chi ba lạn chiếu mê đồ chi nhật nguyệt tự ư Ất Mùi niên gián tuân phụng Thế tôn, lực hành phương tiện quan nghi, như tại mộ hóa tu sùng chí Canh Tý niên trung chước da hoàng kim uyển hồ bích ngọc, tầng tầng liên hoa tọa thượng, ban ban sắc tướng đồ trung. Trác nhĩ nhất thốc lâu đài nguy nga, nhiên trực hồ thiên thế giới yên. Suất tập chu long, cưu công hoàn mãn, thâm đạt tam minh vô chướng ngại viên thông ngũ nhãn, biến thiềm quan trượng, thử lương duyên chí tâm hồi hướng, nhân thất tín ngưỡng hỏa trạch chuyển vi thanh lương các thụ trì. Phàm cốt tễ hồ thánh vực thượng chúc hoàng cung tầm cố đế đạo xướng ninh.
Phật nhật quang minh, pháp luân bỉnh tố, thiên hạ thái bình, dân khang vật phụ, công đức cố hoàn tăng phúc thọ bi văn tiền phẩm nghiêm tinh thành sở hữu cước sắc tính danh khai trần vu tả.
Kê:
Nhất thiền tông môn đồ hộ phúc tự như Tông, tự như Nhật, tự như Ngọc, tự như Trí, tự như Thuyên, tự như Công, tự như Túc, tự như Biện, tự như Minh, tự như Bảo, tự như Đán, tự như Mật. Tự tính Thanh, tự tính Lâm, tự tính Trạc, tự tính Huấn, tự tính Liễn.
Hựu thiều chính phái sa môn tự tính Thanh Pháp hiệu Dung Hòa phụng tuyển chí tự tính Giao tả văn.
Đại nhất hội chủ Sơn Nam đạo Ứng Thiên phủ Chương Đức huyện Lương Xá xã Ốc Thụy Dương phụng sai bản xứ trấn thủ quan trung dũng quân doanh phủ quốc công thần bắc quân quận Đô đốc phủ Tả đô đốc Thự phủ sự Thiếu bảo quận công Đặng Đĩnh Lân phụng tứ quốc tính Trịnh Lân thê quận phu nhân Phan Thị Y hiệu Diệu Cẩm.
Đại hộ công đức Quốc lão tham dự triều chính Thái phó, trí sĩ Ứng quận công Đặng Đình Tướng.
Đại công đức Lỵ Nhân phủ, Thanh Liêm huyện, thiên kiến sở trà châu đồng bổ tòng Ngự sử đài Đô ngự sử thự trung thư lam cẩm Sơn Nam Trương Công Hài, tầm nhân Nguyễn Thị Ninh hiệu Diệu Lam.
Đại công đức Thường Tín phủ Thanh Trì huyện Vân La xã Thị hầu kiên nghĩa Ưu tiền trung hữu trung hậu đẳng thuyền, tịnh Nội giáp trần Phó cai quan Đông cung tri, Thị nội Thư tả lễ phiên Thị nội Giám tư lễ giám Tổng thái giám Thự vệ sự vân quận công Đỗ Bá Phẩm thê quận phu nhân Lê Tthị Sâm.
Đại công đức Phụng Thiên phủ Thọ Xương huyện Đông Tác phường Trung Tự thôn Quốc tử giám Tế tửu quan Nguyễn Thọ phu nhân Đặng Thị Đức.
Đại công đức Thuận An phủ Gia Lâm huyện Như Kinh xã Lê Xá thôn hậu trung khuông trần cai trần Đề đốc phấn Vũ hầu Trương Nhiêu thê Đặng Thị Thể hiệu Diệu Minh.
Chính Hòa thập lục niên đông nguyệt cát nhật.
Dịch nghĩa:
BIA TRÙNG TU CHÙA NGUYỆT ĐƯỜNG
Ôi ! bia được tạo thành từ các loại đá trắng đá xanh ở núi vậy. Cho nên xây dựng những di tích thờ Phật pháp để mãi mãi được lưu truyền. Tây phương là vùng đất cực lạc nhất của cõi Phật vậy.
Tiểu tử kính cẩn nghe: Di Đà ứng thế, thị hiện cây báu bảy tầng, tùy nơi có hoa vàng ngũ sắc, chỉ vào bốn mươi tám thệ nguyện lớn, đường lối mở ra mười sáu pháp để làm sáng rõ quyền giáo và thực giáo vậy.
Ba tòa nhà ngọc nguy nga, tin trao phụng hành, đài cửu phẩm liên hoa sừng sững, Như Lai thuyết pháp khắp nơi, thời thời Bồ đề làm sáng rõ đạo pháp, thần ngộ vô lượng thọ, không sinh không mất, muôn kiếp trường tồn, bày ở máy thiền, có thể là nơi thắng cảnh vậy. Lãm quan diệu dụng Huyền Cơ thiện giác pháp tự Minh Châu, truyền đèn pháp tự Chân Lý nối đèn pháp tự Như Nguyệt. Cùng với những người có tấm lòng từ thiện đã cùng nhau góp công sức xây dựng chùa Phật cho trang nghiêm tráng lệ, như chiếc quạt thổi làn gió nhân, như sóng biển dạt dào, như ánh sáng của mặt trăng mặt trời rọi xuống cõi mê. Đến giữa năm Ất Mùi vâng mệnh thế tôn, ra sức lực hành quyên góp tiền của để sửa chữa trùng tu. Đến giữa năm Canh Tý thì xong. Sắc vàng chói chang, giống như ngọc bích, lớp lớp hoa sen ở trên, thứ thứ sắc tướng ở trong, một tòa lâu đài nguy nga lộng lẫy, trông giống như cảnh thần tiên trên đời vậy. Noi theo để tu bổ xây dựng hoàn thành, thấu suốt ba cõi tam minh không gì ngăn trở, viên thông ngũ nhãn.
Đạo Phật sáng soi, xe pháp rạng tỏ, thiên hạ thái bình, dân khang vật phụ, công đức tròn đầy, phúc dầy bia thọ. Sau đây là tên tuổi những người đã góp công của xây dựng chùa.
Kê:
Các môn đồ: hàng chữ Như có 12 người: tự Như Tông, tự Như Nhật, tự Như Ngọc, tự Như Trí, tự Như Thuyên, tự Như Công, tự Như Túc, tự Như Biện, tự Như Minh, tự Như Bảo, tự Như Đán, tự Như Mật. Hàng chữ Tính có năm người là Tính Thanh, Tính Lâm, Tính Trạc, Tính Huấn, Tính...
Lại nối dòng chính phái Sa môn tự tính Thanh pháp hiệu Dung Hòa vâng mệnh ghi chép lại.
Đại hội chủ là quan trấn thủ Phụ quốc công thần bắc quân Đô đốc phủ tả Đô đốc thự phủ sự Thiếu bảo gia Quận công Đặng Đình Lân được ban tặng họ chúa là Trịnh Lân vốn người xã Lương Xá huyện Chương Đức phủ Ứng Thiên đạo Sơn Nam cùng vợ là Phan Thị Y hiệu Diệu Cẩm.
Đại hộ công đức Quốc lão tham dự triều chính Thái phó, trí sĩ Ứng quận công Đặng Đình Tướng.
Đại công đức Lỵ Nhân phủ, Thanh Liêm huyện, thiên kiến sở trà châu đồng bổ tòng Ngự sử đài Đô ngự sử Thự trung thư lam cẩm Sơn Nam Trương Công Hài, tầm nhân Nguyễn Thị Ninh hiệu Diệu Lam.
Đại công đức Thường Tín phủ Thanh Trì huyện Vân La xã Thị hầu kiên nghĩa Ưu tiền trung hữu trung hậu đẳng thuyền, tịnh Nội giáp trần phó cai quan Đông cung tri Thị nội Thư tả lễ phiên thị nội Giám tư lễ giám Tổng thái giám Thự vệ sự vân Quận công Đỗ Bá Phẩm cùng vợ Quận phu nhân Lê Thị Sâm.
Đại công đức Phụng Thiên phủ Thọ Xương huyện Đông Tác phường Trung Tự thôn Quốc tử giám Tế tửu quan Nguyễn Thọ phu nhân Đặng Thị Đức.
Đại công đức Thuận An phủ Gia Lâm huyện Như Kinh xã Lê Xá thôn hậu trung khuông trần cai trần Đề đốc phấn Vũ hầu Trương Nhiêu cùng vợ là Đặng Thị Thể, hiệu Diệu Minh.
Bia được khắc vào mùa đông năm Chính Hòa thứ 16 (1695).
Tài liệu tham khảo
1. Vũ trung tùy bút.
2. Thượng kinh ký sự, Nxb. Văn học,
3. Hương Hải thiền sư ngữ lục, Nxb. Tp. Hồ Chí Minh, 2000./.
Thông báo Hán Nôm học 2006 (tr.425-430)
---o0o---
Một vài đính chính nhỏ về hành trạng Thiền sư Minh Châu Hương Hải
Ngô Quốc Trưởng
Thiền sư Minh Châu Hương Hải là một tác gia lớn không chỉ văn học Phật giáo mà cả văn học dân tộc. Thiền sư là người mở ra một phương pháp mới trong việc dịch thuật và nghiên cứu Phật học. Phương pháp mà thiền sư sử dụng là sự hòa quyện giữa dịch và giải. Lối dịch giải này trước đây chưa ai sử dụng và nó có những thành tựu đáng kể. Thế nhưng, những người sau này không có ai kế thừa.
Từ những thập kỷ 30 của thế kỷ XX đã có nhiều người nghiên cứu về thiền sư Minh Châu Hương Hải. Thiện Đình công bố bài Truyện đức Hương Hải thiền sư trong báo Nam Phong số 136, đến Trí Hiếu qua bài Lịch sử chùa Xích Đằng đăng trên báo Đuốc Tuệ số 7 đã cho giới thiệu về hành trạng thiền sư cùng thơ văn.
Năm 1978, Nguyễn Lang trong Việt Nam Phật giáo sử luận II dành một chương nghiên cứu về thiền sư. Tác giả đã tìm hiểu về con người cũng như tư tưởng, thi văn. Có thể nói, đây là một chương đi sâu nghiên cứu mà trước đó chưa ai khảo cứu được.
Năm 1999, Thích Thanh Từ cho dịch và giảng giải Hương Hải thiền sư ngữ lục và công bố bảng hành trạng thiền sư trong Thiền sư Việt Nam.
Năm 2000, Lê Mạnh Thát cho sưu tầm các tác phẩm và công bố Toàn tập Minh Châu Hương Hải. Đây là một công trình có qui mô, giá trị nhất từ trước đến nay. Tác giả đã chỉ ra tác quyền của một số thơ văn trong Minh châu Hương Hải ngữ lục là của các thiền sư Trung Quốc. Nhưng khi nói đến Toàn tập thì phải công bố hết các tác phẩm của thiền sư nhưng qua khảo sát của chúng tôi, đến thời điểm này, một số tác phẩm của thiền sư Minh Châu Hương Hải như Diệu pháp liên hoa kinh thích giải, Bát nhã Đại Điên được lưu trữ tại Viện nghiên cứu Hán Nôm chưa được nghiên cứu. Một số tác phẩm của thiền sư vẫn còn được bảo tồn tại các thư viện nhà chùa.
Gần đây, một số nhà nghiên cứu đã dịch hai văn bia Tổ Sư bi ký và Tông Sư bi ký ghi lại hành trạng hai thiền sư Minh Châu Hương Hải (1628-1715) và Chân Lý Hiển Mật (1672-1739). Nhìn chung, các công trình trên đã nghiên cứu một cách công phu, sử dụng nhiều tư liệu quí, mở ra cái nhìn toàn diện về Minh Châu Hương Hải. Công sức đóng góp của các công trình đã để lại nhiều giá trị trong việc nghiên cứu về Minh Châu Hương Hải. Trong bài viết này, chúng tôi đính chính một vài lỗi nhỏ trong hành trạng thiền sư Minh Châu mà các tư liệu trước vấp phải.
Trước hết, tư liệu mà các nhà nghiên cứu sử dụng để ghi lại bản tiểu sử thiền sư là Kiến văn tiểu lục, thiên Thiền Dật của Lê Quí Đôn, cùng bản hành trạng trong Hương Hải thiền sư ngữ lục (viết tắt Ngữ Lục). Do Ngữ lục thiếu mất mấy tờ đầu nên đoạn thông tin không được biết rõ. Các học giả y cứ thiên Thiền Dật trong Kiến văn tiểu lục ghi chép bổ sung, tạo nên một bảng hành trạng đầy đủ. Tưởng như các cứ liệu đưa ra là có độ chính xác cao, nên các công trình sau này đã liên tục sử dụng kế thừa.
Khi chúng tôi về thăm chùa Xích Đằng, nhà chùa đưa đi thăm xung quanh và cho biết hiện còn hai ngôi tháp của thiền sư Minh Châu Hương Hải và thiền sư Chân Lý Đề Mật. Thông qua tư liệu còn lại, nhất là các văn bia được bảo tồn tại bản tự, chúng tôi đối chiếu với bảng hành trạng thiền sư Hương Hải và thấy có một số lỗi cần đính chính như sau:
1. Có phải ngài có tục danh là Tổ Cầu hay không?
Trước đây, các tư liệu đưa ra đều ghi tục danh của ngài là Tổ Cầu. Chúng tôi tham khảo Kiến Văn tiểu lục, thiên Thiền Dật đề: “Hương Hải thiền sư tục danh Tổ Cầu 香海禪師俗名祖求”. Còn Ngữ lục do mất hai tờ đầu nên không thể biết được. Các tư liệu tiếng Việt sau này đều y cứ như thế. Thế nhưng, theo Tông sư bi ký cho biết: “Thập thất xuất gia, thụ giáo qui y ư Tổ Tích Hương Hải thiền sư, ấn chứng trí danh pháp tự Chân Lý 十七出家受教皈依於祖跡香海禪師印證置名法嗣真理” [7, tr.740] nghĩa là năm 17 tuổi, sư xuất gia, thụ giáo qui y với thiền sư Tổ Tích Hương Hải, ấn chứng ban pháp tự là Chân Lý. Qua đối chiếu tư liệu, chúng tôi nhận thấy bản Kiến Văn tiểu lục bản A. 32 là sách chép tay mà Lê Mạnh Thát chỉ ra sai sót trong khi sao chép. Văn bia lập năm Kỷ Mùi niên hiệu Vĩnh Hựu thứ 5 (1739) có niên đại lâu hơn, và những người trong tông môn khi viết hành trạng thiền sư được tạc vào bia đá thì độ chính xác khá cao. Không lẽ, lại chép sai tên thầy mình cùng các tổ sư. Chúng tôi cho rằng Tổ Tích mới chính xác, còn tục danh Tổ Cầu là chữ viết sai của chữ Tổ Tích.
2. Có phải tên vị thầy của thiền sư Hương Hải là Đại Thâm Viên Khoan hay không?
Thiên Thiền Dật trong Kiến Văn Tiểu Lục ghi: “Hựu học đạo ư Đại Thâm Viên Khoan thiền sư又學道於大深圓寬禪師” nghĩa là lại học đạo với thiền sư Đại Thâm Viên Khoan. Do Ngữ lục mất 2 tờ đầu nên phần thông tin trên đã mất. May mắn, văn bia Tổ Sư Bi Ký ghi lại hành trạng thiền sư Hương Hải lại chép: “Nhĩ thời, đầu Phật xuất gia, thụ giáo chính tông ư Đại Thâm Viên Thật thiền sư 爾時投佛出家受教正宗於大深圓實禪師” [7, tr.736] tức là lúc bấy giờ, sư đầu Phật xuất gia, thụ giáo chính tông với thiền sư Đại Thâm Viên Thật. Đối chiếu hai tư liệu, chúng tôi thấy trong chữ Hán, chữ Khoan (寬) với chữ Thật (實), tự dạng gần giống nên bản chép tay dễ nhầm. Do đó, chúng tôi y cứ nơi văn bia Tổ sư bi ký cho là thiền sư Đại Thâm Viên Thật chứ không phải là Đại Thâm Viên Khoan.
Cũng theo nguồn tư liệu văn bia trên, thiền sư Hương Hải lúc đầu xuất gia với thiền sư Đại Khâm Viên Thật. Sau đó, ngài sang học đạo với thiền sư Lục Hồ Viên Cảnh. Chứ không phải ngài học đạo với thiền sư Lục Hồ Viên Cảnh, rồi tham học với thiền sư Đại Thâm Viên Thật như trong Kiến Văn Tiểu lục của Lê Quí Đôn (1726-1784).
Về hai vị thiền sư trên, chúng ta chưa có tư liệu nào ghi lại rõ ràng, chỉ biết các ngài hành đạo tại vùng Triệu Phong xưa, nay thuộc tỉnh Quảng Trị. Hai thiền sư này có nguồn gốc từ Trung Quốc, chứ không phải như nhận định sau: “Nhiều thiền sư phái Trúc Lâm đã trốn vào các vùng núi phía nam ở Quảng Trị, Thuận Hóa hoặc Quảng Nam, Quảng Ngãi và cũng có thể vào sâu hơn nữa. Họ ẩn tu chôn giấu tên tuổi, tông tích cho mãi đến đời Mạc (1527-1595) và Lê Trung Hưng (1533-1588) mới dần dần xuất đầu lộ diện, một số thiền sư liên hệ môn phái Trúc Lâm như Chân Nghiêm đời Mạc hay Viên Cảnh, Viên Khoan mà tông tích không ai được rõ”.
Cả hai đều thuộc tông Lâm Tế truyền theo bài kệ của tổ Trí Bản Đột Không. Bài kệ như sau:
‘’Trí tuệ thanh tịnh,
Đạo đức viên minh.
Chân như tính hải,
Tịch chiếu phổ thông…”
Do việc suy từ hệ thống truyền thừa mà chúng tôi kết luận tông phái cũng như tông tích của hai vị này. Bởi vì, hai vị có pháp tự đứng đầu bằng chữ “Viên” lại cho đệ tử bằng chữ “Minh”. Thiền sư Hương Hải cho xuống chữ “Chân”, rồi Như, Tính, Hải…
Hệ thống truyền thừa này tưởng chừng như bị đứt tuyệt. Trong quá trình sưu tầm tư liệu, chúng tôi tiếp xúc khoa cúng tổ chùa Tế Xuyên ở Hà Nam. Lúc đầu, các tổ sư chùa Tế Xuyên hành đạo tại chùa Thánh Ân, sau mới chuyển xuống chùa Tế Xuyên, phát triển tông môn. Truy tìm nguồn gốc, khoa cúng cho biết thiền sư Tính Thức học đạo với tổ sư Như Tông, chùa Nguyệt Đường. Đối chiếu Ngữ Lục, chúng ta biết thiền sư Như Tông có nằm trong danh sách hàng tông môn trong dòng thiền Nguyệt Đường. Chúng tôi cho rằng, thiền sư Như Tông chính là đệ tử của thiền sư Chân Lý. Một điều có thể suy ra là sau khi thiền sư Như Nguyệt viên tịch, thiền sư Như Tông đã kế đăng trụ trì chùa Nguyệt Đường. Do đó, thiền sư Tính Thức mới học đạo với thiền sư Như Tông tại chùa Nguyệt Đường.
Qua việc truy nguyên tông phái sơn môn Tế Xuyên-Hà Nam, chúng ta biết được dòng thiền Nguyệt Đường đã phát triển mạnh trong tỉnh Hưng Yên, sau truyền xuống Hà Nam, phát triển thành sơn môn Tế Xuyên, một sơn môn nổi tiếng miền Bắc.
Tóm lại, do đối chiếu các tư liệu với nhau, chúng tôi đã chỉ ra một vài lỗi do bản chép tay Kiến văn tiểu lục ghi lại hành trạng thiền sư Minh Châu Hương Hải. Có thể khi sao chép không có tư liệu đối chiếu nên dễ chép sai, hiện tượng sao chép các chữ sai có cùng tự dạng trong Hán văn là điều thông thường. Các nhà văn bản học Hán Nôm cũng chỉ ra hiện tượng sao chép trên trong rất nhiều công trình. Qua đó để chúng ta có thể ghi lại hành trạng thiền sư Hương Hải một cách chính xác hơn.
Chú Thích:
1. Nguyễn Tài Thư (chủ biên), Lịch sử Phật Giáo Việt Nam, Nxb KHXH, H. 1988, tr. 301.
Tài liệu tham khảo
Trí Hiếu, “Lịch sử chùa Xích Đằng”, Đuốc Tuệ số 7, năm 1936, tr. 17-22.
Thiện Đình, “Truyện đức Hương Hải thiền sư”, Nam Phong số 136, năm 1929, tr. 31-37.
Nguyễn Lang (1993), Việt Nam Phật Giáo sử luận II, Nxb Lá Bối, San Jose CA – USA.
Lê Mạnh Thát (2000), Toàn tập Minh Châu Hương Hải, Nxb TP Hồ Chí Minh.
Lê Quí Đôn, Kiến Văn Tiểu Lục, bản A.32 của Viện nghiên cứu Hán Nôm.
Nguyễn Minh Quý, “Thân thế và sự nghiệp Hương Hải thiền sư qua tấm bia Tổ sư bi ký” trong Thông báo Hán Nôm học 2005, tr. 545-548.
Tổng tập thác bản văn khắc hán nôm, tập 4, Nxb Văn hóa thông tin, H. 2005, tr. 736, 740.
Ngô Quốc Trưởng
[Tập san Pháp Luân - số 74, tr41, 2010]
|