Personal Information
Danh Tánh
|
TS Phật Đà Bạt Đà La
|
|
Gender | ♂️ Male |
Hành Trạng
Additional Info
Phật-đà Bạt-đà-la dịch là Giác Hiền, vốn dòng họ Thích-ca, người nước Ca-duy La-vệ con cháu Cam Lồ Phạn vương. Tổ phụ là Ðạt-ma Ðề-bà, dịch là Pháp Thiên, thường sang Bắc Thiên-trúc buôn bán, nhơn đó mà di cư sang ở đó. Cha là Ðạt-ma Tu-da-lợi, đây dịch là Pháp Nhật, mất sớm. Ngài lúc ba tuổi mồ côi cha, năm tuổi lại mồ côi mẹ, được người trong dòng họ nuôi dưỡng. Tổ Cưu-bà-lợi thấy Bạt-đà-la thông minh mẫn tiệp nên đem về cho xuất gia làm Sa-di. Ðến năm mười bảy tuổi cùng với vài người bạn đồng học lấy việc tụng kinh làm hạnh nguyện. Ðại chúng học thuộc các bài kinh kệ trong vòng một tháng, nhưng ngài Giác Hiền chỉ trong một ngày là thuộc làu. Vị thầy khen rằng: - Giác Hiền trong một ngày đối lại với ba mươi người vậy. Thọ giới Cụ túc xong, Ngài càng tinh tấn tu thiền định và giới luật. Ngài học rộng thông đạt các kinh điển. Ngài cùng bạn học là Tăng-già Ðạt-đa sang du học tại nước Kế Tân. Tuy đồng lứa tuổi mà Ðạt-đa lại rất kính phục tài trí của Giác Hiền, mà vẫn chưa biết ngài thế nào. Một lần đóng cửa mật thất ngồi thiền, chợt thấy ngài Giác Hiền, kinh ngạc liền hỏi từ đâu đến. Ngài đáp: - Tôi vừa lên cung trời Ðâu-suất lễ lạy Bồ-tát Di-lặc về. Nói xong thì ngài Giác Hiền liền biến mất. Sa-môn Tăng-già Ðạt-đa mới biết Ngài là bậc thánh nhơn hóa thân, nhưng chưa biết quả vị sâu cạn. Sau này vì thường thấy những điều thần biến của Ngài, Tăng-già hỏi mới biết ngài Giác Hiền chứng quả Bất Hoàn. Ngài thường đi chu du giáo hoá khắp nơi để hoằng pháp và xem phong tục các miền, gặp Sa-môn Trí Nghiêm người Hán sang nước Kế Tân. Trí Nghiêm thấy chúng Tăng ở đây thanh tịnh, liền muốn thỉnh mời về Trung Quốc. Nên nói: - Chúng tăng ở nước chúng tôi đều có tâm cầu Phật pháp mà chưa gặp được các bậc đạo sư chơn chánh, nên chưa lãnh hội được chánh pháp. Ngài Trí Nghiêm thăm hỏi dân chúng trong nước rằng ai là người có đủ oai đức đạo hạnh để hoằng pháp ở Ðông độ. Mọi người đều nói: - Có Sa-môn Phật-đà Bạt-đà-la, Người thành Nha-lợi ở Thiên-trúc. Gia thế nhiều đời tin phụng phật pháp. Tuổi nhỏ xuất gia, tinh thông kinh luận, lại từng thọ nghiệp với đại Thiền sư Phật Ðại Tiên. Phật Ðại Tiên cũng bảo Trí Nghiêm: - Người có khả năng tuyên dương phật pháp và làm cho tăng chúng Ðông độ được cảm hoá, chỉ có Phật-đà Bạt-đà-la. Do Trí Nghiêm thành tâm thỉnh cầu, Ngài bằng lòng sang hoằng pháp tại Trung thổ. Lễ bái từ tạ ân sư và đại chúng đi sang Ðông độ. Sau ba năm trải ra mấy lần nóng lạnh, Ngài vượt qua ngọn Thông lãnh, du hành vượt bao núi sông sa mạc, qua sáu quốc gia. Quốc vương các nơi đều có cúng dường thâm hậu khi biết được chí nguyện hoằng dương Phật pháp của Ngài. Khi đến Giao Chỉ1(Việt Nam), Ngài lại lên thuyền, khi đi qua một hòn đảo, Ngài bảo chủ thuyền: - Có thể dừng lại nơi hòn đảo này. Chủ thuyền nói: - Hành khách tiếc thời gian, thuyền lại đang thuận gió không thể dừng lại. Ði được hơn hai trăm dặm, chợt gặp trận dông bão thổi thuyền trở lại hòn đảo đó. Mọi người trên thuyền mới biết sự thần biến của Ngài, đều cúng dường tôn kính. Sau đó gặp gió thuận, chủ thuyền định cho thuyền chạy Ngài bảo: - Không thể chạy. Chủ thuyền cho dừng lại, không bao lâu có tin đến bảo các thuyền đi trước đã bị chìm hết. Ðêm kia, Ngài bảo chủ thuyền nên khởi hành nhưng ông không nghe. Ngài Giác Hiền tự trương buồm, cho thuyền chạy ra khơi. Bỗng chốc bọn hải tặc đến cướp bóc làm hại những chiếc thuyền còn lại. Không bao lâu thuyền đến Thanh châu ở quận Lai. Nghe tin ngài La-thập đã đến Trường An, ngài tức tốc đến đó bái kiến. Gặp ngài Ðà-la, Ngài La-thập rất vui mừng, rồi cùng đàm luận về pháp tướng, những chỗ huyền vi phần nhiều cùng sở ngộ. Ngài hỏi Ngài La-thập rằng: - Chỗ giải thích kinh điển của ông chẳng phải khác lạ, mà được nổi danh là sao? Ngài La-thập đáp: - Tôi có duyên với họ nên được vậy, chứ không thật xứng với danh xưng. Mỗi khi có điều nghi ngờ, ngài La-thập đều thảo luận với Ngài. Một hôm Thái tử Dao Hoằng thỉnh Ngài đến thuyết pháp, bèn mời chúng tăng đến đông đủ tại Ðông cung. Hai ngài La-thập và Giác Hiền cùng thảo luận qua lại. Ngài La-thập hỏi: - Pháp không là gì? Ðáp: - Các cực vi hợp thành sắc, sắc không có tự tánh. Cho nên sắc là thường không Lại hỏi: - Đã dùng cực vi phá sắc không, lại nói làm sao mà phá cực vi. Ðáp: - Các thầy thường phá một cực vi. Ý tôi thì không cho như vậy. Lại hỏi: - Cực vi là thường sao? Ðáp: - Vì một cực vi cho nên nhiều cực vi là không, vì có các cực vi cho nên một cực vi là không. Khi đó Sa-môn Bảo Vân dịch ra lời này mà không giải thích ý. Cho nên tăng tục đều cho ngài Giác Hiền chấp cho vi trần là thường. Ít lâu sau tăng chúng ở Trường An thỉnh Ngài giải thích, Ngài bảo: - Phàm các pháp đều không có tự sanh, duyên hợp cho nên sanh. Duyên vào một vi trần cho nên có các vi trần. Vi trần không có tự tánh thì đều là không vậy. Sao có thể nói không phá một vi trần thường mà là bất không sao?. Ðây là những đại ý của những lời hỏi đáp vậy. Vua Dao Hưng chuyên tâm vào việc chấn hưng đại pháp, cúng dường hơn ba ngàn vị tăng, các vị thường qua lại cung khuyết, làm các việc nhơn sự. Duy có ngài Giác Hiền an phận tĩnh tu, sống đạm bạc không đồng với chúng. Có lần Ngài bảo với đệ tử rằng: - Ta thấy có năm chiếc thuyền từ quê hương xuất phát rồi sẽ đến đây. Chúng đệ tử truyền báo lời này ra ngoài, tăng chúng ở Quan Trung đều cho lời này là hiển dị mê hoặc chúng. Ngài ở tại Trường An hoằng tuyên thiền pháp, chư thiền gia ở các phương đều nghe danh tìm đến. Nhưng người nhiễm học có sâu cạn, người đắc pháp có cao thấp. Do đó mà đồ chúng dối trá giả danh Ngài mà làm những điều xằng bậy. Có một đệ tử nhơn có chút quán hạnh, tự nói mình đã chứng quả A-na-hàm mà chưa được Ngài chứng nghiệm. Ðiều này đưa đến sự huỷ báng Ngài không ngớt. Ðồ chúng của Ngài vì lo họa lây nên bỏ trốn chỉ trong nửa ngày mà ly tán gần hết. Nhưng Ngài vẫn ung dung mà không chút động tâm. Lúc này có các vị tăng như Tăng Bích, Ðạo Hằng nói với Ngài rằng: - Phật còn không nói mình đã đắc pháp. Trước đã nói có năm thuyền đến là điều không thật. Nay môn đồ Ngài lại làm điên đảo mê hoặc lòng chúng, như vậy là trái với lý của luật nên đi chỗ khác chớ lưu lại đây. Ngài bảo: - Thân ta nhỏ bé tầm thường, đi ở đều dễ dàng, chỉ tiếc hoài bão hoằng pháp chưa thành tựu. Ngài cùng với bốn mươi đệ tử như Tuệ Quán v.v… rời khỏi Trường An, thần trí đều ung dung tự tại không hề biến khác. Những người hiểu biết đều thương tiếc, đến đưa tiễn cả ngàn người. Vua Dao Hưng nghe Ngài đi lòng rất thương tiếc, bèn nói với Ðạo Hằng: - Ngài Giác Hiền vì trọng trách hoằng dương Phật pháp mà đến Trung thổ. Lời dạy của Ngài ai cũng tán dương cảm kích. Há vì một lời lầm lẫn mà làm cho mất đi một đấng tôn sư. Vua cho sứ đuổi theo thỉnh cầu Ngài trở lại, Ngài bảo với sứ giả: - Ta rõ ân tình của vua, nhưng không thể tuân theo lệnh. Ngài dẫn tăng chúng đi vào Nam đến núi Lô Sơn, Sa-môn Tuệ Viễn lâu nay từng nghe danh Ngài nên vui mừng tiếp rước. Ngài Tuệ Viễn biết là do lỗi của các môn đồ mà ngài Giác Hiền bị huỷ báng. Nói về năm chiếc thuyền sẽ đến Trung thổ chỉ là ý cá nhân chứ không phạm vào giới luật. Do đó ngài Tuệ Viễn bảo đệ tử đem thư đến cho vua và tăng chúng ở Quan Trung để nói rõ việc này. Rồi thỉnh Ngài về núi để phiên dịch kinh điển thiền pháp. Nhưng chí ngài Giác Hiền là muốn du hoá, không mong cầu an cư, nên chỉ dừng lại vài năm rồi lại đi qua vùng Giang Lăng ở miền Tây. Trên đường gặp một chiếc thuyền ngoại quốc, hỏi thăm thì quả là có năm chiếc thuyền từ Thiên-trúc sang. Không bao lâu hàng sĩ thứ ở Giang Lăng đều tìm đến lễ bái cúng dường. Nhưng ngài không thọ nhận các phẩm vật, đến bữa Ngài chỉ mang bình bát đi khất thực mà không phân biệt giàu nghèo. Lúc này có Viên Báo ở Trần quận là quan trưởng sử thái úy của Tống Vũ Ðế, kéo quân đến Giang Lăng. Ngài Giác Hiền cùng đệ tử là Tuệ Quán đến dinh thự của Viên Báo đi khất thực. Viên Báo vì chưa tin kính Phật pháp nên đối đãi tệ bạc. Ăn chưa no, Ngài và Tuệ Quán đứng dậy cáo từ. Viên Báo nói: - Chưa ăn xong sao lại cáo từ? Ngài bảo: - Đàn việt cúng thí tâm có hạn. Nhưng ta đã dùng hết thức ăn rồi. Viên Báo liền kêu người dọn thêm, cơm quả nhiên đã hết. Viên Báo cảm thấy thật xấu hổ, sau đó hỏi Tuệ Quán: - Vị Sa-môn này là người thế nào? Tuệ Quán đáp: - Ngài là vị đức lượng cao xa, hàng phàm phu không thể hiểu nổi. Viên Báo cảm kích thần dị của Ngài nên thưa với thái thú Lưu Dự, Lưu Dự bèn sai thỉnh Ngài đến. Lưu Dự cung kính cúng dường chu đáo, sau đó Lưu Dự trở về kinh đô mời Ngài theo về Trường An, cư trú ở chùa Ðạo Tràng, nghi dung mô phạm của Ngài đều khác phàm nhân mà chí nguyện cũng thanh cao hoà nhã và uyên thâm. Pháp sư Tăng Bật và sa-môn Bảo Lâm ở kinh đô thường nói: - Ngài Giác Hiền ở Ðạo Tràng có đại tâm thật giống như một vị vua ở Thiên Trúc thật là người phong lưu. Mọi người đều tôn xưng ngài như thế. Trước kia Sa-môn Chi Pháp Lãnh ở tại Vu Ðiền thỉnh được phần trước kinh Hoa Nghiêm có ba mươi sáu ngàn bài kệ chưa dịch ra. Ðến năm Nghĩa Hy thứ mười bốn (418), quan nội sử Ngô quân là Mạnh Tiên, tả vệ quân Trử Thúc Ðộ, liền cầu thỉnh Ngài phiên dịch. Ngài cùng với các Sa-môn Pháp Nghiệp, Tuệ Nghiêm hơn một trăm vị, ở chùa Ðạo Tràng cùng phiên dịch thuyên định văn chương yếu chỉ, thông cả Hoa Phạm, đắc được diệu ý của kinh. Cho nên ở chùa Ðạo Tràng còn gọi là Ðiện đường Hoa Nghiêm. Lại có Sa-môn Pháp Hiển ở bên Tây Vực có được quyển Tăng-kỳ luật bằng tiếng Phạm, cũng thỉnh Ngài dịch ra Tấn văn. Trước sau kinh điển Ngài dịch gồm: Quán Phật Tam-muội Hải sáu quyển kinh Niết-bàn, Tu hành phương tiện luận v. v… tất cả là mười lăm bộ, một trăm mười quyển. Tất cả đều hợp với yếu chỉ kinh bổn, văn ý đều lưu loát rõ ràng. Ngài mất vào năm Nguyên gia thứ sáu (429) thọ bảy mươi mốt tuổi. |
Contact Information
Phone
|
Array |
Address | Array |