TS Phúc Điền Tịch Tịch

Personal Information

Danh Tánh
TS Phúc Điền Tịch Tịch - Ðời Thứ 37 Tông Lâm Tế - Ðời Thứ 7 Dòng Lâm Tế Đàng Ngoài
Gender ♂️ Male

Hành Trạng

Additional Info

Thiền Sư An Thiền
(Hay Hòa thượng Phúc Điền)
(? - ?)

Trước đây, nhiều sách về lịch sử Phật giáo Việt nam đều cho rằng Thiền sư An Thiền và Thiền sư Phúc Điền là hai vị sư khác nhau và viết rất sơ lược.
- Sách Lịch sử Việt Nam của Viện Triết học (Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1988), trong chương XV: Các nhà sư tiêu biểu dưới Thời triều Nguyễn, trang 387, có viết: “Sư Phúc Điền có các học trò nổi tiếng là các sư Thông Vinh, An Thiền...
- Sách Việt Nam Phật giáo sử luận của Nguyễn Lang, tập II, trong chương XXV: Các danh tăng đời Nguyễn, trong đó có mục khác nhau:
- Thiền sư An Thiền (trang 323-324)
- Thiền sư Phúc Điền (trang 327-328)
- Sách Thiền sư Việt Nam của Thích Thanh Từ cũng ghi tiểu sử của hai Thiền sư An Thiền và Phúc Điền khác nhau:
- Thiền sư An Thiền (trang 393-394)
- Thiền sư Phúc Điền (trang 427-428)
Nhưng Thực ra “Kim Cương Phát Nguyện Khoá Hư Quốc Âm” do Phúc Điền Hòa thượng Sa môn An Thiền dịch ra quốc âm (dịch từ chữ Hán ra chữ Nôm), trong đó phần sách “Khóa Hư Quốc Âm” - có ghi rõ “Đại Giác thiền tự, độ điệp Phúc Điền Hòa thượng - Sa môn An Thiền Khóa Hư Lục Giải Âm” (Hòa thượng Phúc Điền, Sa môn An Thiền được cấp độ điệp ở chùa Đại Giác giải âm).
Hòa thượng Phúc Điền hay Sa môn An Thiền họ Võ, quê ở Sơn Minh (Hà Nội), chưa rõ năm sinh và năm mất, sống vào Thời các vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức (1802 - 1883).
Thiền sư Phúc Điền xuất gia vào năm 12 tuổi, tu học ở chùa Đại Bi, xã Thịnh Liệt, Hà Nội. Năm 20 tuổi trụ trì chùa Pháp Vân ở huyện Phù Ninh, tỉnh Bắc Ninh. Thiền sư Phúc Điền xuất gia tu học và hoằng hóa ở hai chùa cổ xưa danh tiếng và rất quan trọng trong Phật giáo Việt Nam Thời xưa, nhờ đó tiếp thu được nhiều kinh sách quý xưa và truyền thống quý báu của Thiền tông Việt Nam Thời xưa: Chùa Pháp Vân hay chùa Dâu là một trong các chùa cổ xưa nhất của Phật giáo Việt Nam, và là Tổ đình của phái thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi... Chùa Đại Bi là chùa do Thiền sư Huyền Quang, Tổ thứ ba của phái thiền Trúc Lâm, sáng lập .
Tu học từ nhỏ ở Tổ đình xưa nhất và nổi danh Thời xưa, có truyền thống lâu đời trong Phật giáo Việt Nam, lại thông minh và chí tâm học đạo nên sư Phúc Điền sớm trở nên một thiền sư uyên thâm Phật pháp và nổi danh.
Năm 1830, vua Minh Mạng mở Đại trai đàn ở chùa Thiên Mụ, cho triệu mời các danh tăng khắp các tỉnh trong nước về tham dự, Thiền sư An Thiền cũng được gọi về kinh đô Phú Xuân (Huế). Sau Đại trai đàn đó, vua giao cho Bộ Lễ tổ chức kỳ thi cho chư tăng để cấp độ điệp cho các vị trúng tuyển. Trong kỳ thi tuyển mấy trăm tăng sĩ đó, chỉ chấm đậu có mấy chục vị để cấp độ điệp. Thiền sư An Thiền được cấp độ điệp trong dịp này.
Sau đó, Thiền sư Phúc Điền còn lưu lại kinh đô Huế mấy tháng để tham học và nghiên cứu thêm về Phật giáo ở kinh đô, viếng các chùa danh tiếng như Thiên Mụ, Báo Quốc,Từ Đàm, Ấn Tông, Quốc Ân...
Năm Minh Mạng 21 (1840), Thiền sư Phúc Điền về hoằng hóa ở chùa Đại Giác, trên núi Bồ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
Năm Thiệu Trị thứ 3 (1843), Hòa thượng khai sơn chùa Phú Nhi ở Sơn Tây.
Năm Thiệu Trị thứ 6 (1846), mở chùa Liên Trì ở Hà Nội. Năm sau (1847), hoằng hoá ở chùa Báo Thiên (Hà Nội).
Năm Tự Đức thứ 5 (1852), Hòa thứợng Phúc Điền về trụ trì chùa Liên Phái ở Hà Nội. Hòa thượng tổ chức và chỉnh đốn lại chùa này.
Năm Giáp Dần (1854), niên hiệu Tự Đức thứ 7, Hòa thượng Phúc Điền giao cho sư Thanh Minh, hiệu Lạc Sơn, chủ trì trùng tu lại chùa Liên Tông và giao cho sư một ngàn quan tiền.
Năm Ất Mão (1855), sư Thanh Minh đứng ra quyên góp tiền của của Phật tử, mua gỗ, thuê thợ, đứng ra lo trùng tu lại chùa này. Công việc trùng tu được hoàn thành vào năm Kỷ Mão (1859).
Hòa thượng Phúc Điền là người có công nhất đối với Phật giáo dưới Thời nhà Nguyễn ở miền Bắc. Hòa thượng đã đứng ra xây dựng và trùng tu nhiều chùa ở miền Bắc, biên soạn, giảng giải và khắc in lại kinh sách Phật giáo.
Hòa thượng Phúc Điền viên tịch ngày 30 tháng 10 âm lịch, chưa rõ năm nào, thọ 80 tuổi (1), để lại bài kệ sau:
“Các thuyết trần ngọ nhập
Dĩ ngộ hoạch viên thông
Đạo ngoại nguyên vô đạo.
Không trung cánh bất không
Vu kim truyền chính pháp
Tu tích diễn chân tông
Dĩ vô sở đắc cố
Bất tại cá ngôn trung.
(Ngộ nhập các thuyết trần
Giác ngộ đạt viên thông
Ngoài đạo vốn không đạo
Trong không không phải không
Như nay truyền chánh pháp
Diễn chân Tông từ xưa
Không có gì mà đắc
Không do ở lời nói).
Hòa thượng Phúc Điền dịch ra chữ Nôm, chú giải biên soạn nhiều kinh sách Phật giáo và đứng ra lo ấn tống nhiều kinh:
- Phóng Sinh Giới Sát Văn: sách chữ Hán, gồm 10 tờ (20 trang): khuyên phóng sinh và không sát sinh.
- Sa Di Luật Nghị Giải Nghĩa: Hòa thượng Phước Điền diễn ra quốc âm và giải nghĩa sách của sư Chu Hoàng, chùa Vân Thế ở Trung Quốc biên soạn. Sách có 2 quyển, dày 372 trang, khắc in tại chùa Thiên Phúc, tỉnh Bắc Ninh, vào năm Tự Đức 14 (1861).
- Tam Bảo Hoằng Thông
- Chư Kinh Nhật Tụng Đồ
- Thiền Gia Kinh Chú Các Khoản
- Tiểu Du Già
- Tại Gia Tu Trì
- Ngũ giới
- Thập Giới Điện
- Hiệu Đính Phật Tổ Thống Kỷ
- Tả Vi Phương Sách (12 quyển)
- Âm Hồn Điệp (12 chương)
- Kỳ An Phương Tinh Điệp (12 dẫn)
- Thiền Uyển Kế Đăng Lược Lục
- Kinh Hoa Nghiêm (80 quyển)
- Đại Giới Điệp
- Cựu Bản Phật Tổ Kế Đăng
- Hộ Pháp Luận Quốc Âm Bản
- Trúc Song Quốc Âm Bản
- Thiền Lâm Bảo Huấn Quốc Âm Bản
- Đại Nam Thiền Uyển Truyền Đăng Tập Lục (5 quyển)
- Đạo Giáo Nguyên Lưu
Các bản khắc gỗ và các kinh sách này được lưu tại chùa Bồ Sơn (chùa Đại Giác) ở Bắc Ninh và chùa Liên Tông ở Hà Nội.

---o0o---

Sách Đại Nam Thiền Uyển Truyền Đăng Tập Lục

Năm Kỷ Mùi (1839), Tự Đức thứ 12, Hòa thượng Phúc Điền đã cho khắc in lại sách Đại Nam Thiền Uyển Truyền Đăng Tập Lục (Trùng khắc Đại Nam Thiền Uyển Truyền Đăng Tập Lục) gồm có:
- Quyển thượng: tức là sách “Thiền Uyển Tập Anh Ngữ Lục” đời Trần, có ghi lời chú: quyển thơợng, thất tập nhân danh, cựu bản Tiên Sơn tự (quyển thơợng, mất tên tác giả, in theo bản in của chùa Tiên Sơn).
Bản in cũ của chùa Tiên Sơn ở đây có thể là bản in sách “Thiền Uyển Tập Anh Ngữ Lục” do Thiền sư Như Trí và 14 người đệ tử góp công và của vào công việc trùng khắc và in sách vào ngày tốt tháng 4 niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 11 triều Lê (tức năm 1715).
Sách này gồm có bài tựa và tiểu sử của 38 vị thiền sư thuộc phái Vô Ngôn Thông, tiểu sử 29 Thiền sư thuộc phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi và danh sách 19 thiền sư của phái Thảo Đường.
Bài tựa của sách này không có tên tác giả, mà chỉ ghi ngày tháng trùng khắc mà thôi. Bài tựa này có tên là “San Khắc Truyền Đăng Thủ Trần Gia Bản” do một cụ đồ nho viết, trong đó viết:
“Sau buổi dạy học tại Chiên Đường, một vị thiền tăng đã đến đàm luận rất lâu với tôi về kinh Phật. Những chuyện bàn luận đều thuộc và các vấn đề Phật giáo như lông rùa, sừng thỏ... Vị tăng liền lấy trong tay áo ra một quyển lục tên là “Tập anh” nhờ tôi sửa chữa chỗ sai để in lại. Sau đó ông đồ cho biết là ông đã làm công việc hiệu đính sách này trong mười lăm ngày và viết bài tựa.
Vị thiền tăng đem sách đến cho ông đồ có lẽ là Thiền sư Như Trí. Qua việc hiệu đính của ông đồ này, chắc hẳn là quyển sách đó bị sửa chữa sai lầm nhiều vì trình độ hiểu biết về Phật pháp của ông đồ rất kém. Ông đồ này chưa hiểu về Phật giáo khi ông đã viết :”Những chuyện bàn luận đều thuộc về vấn đề Phật giáo như lông rùa, sừng thỏ... “tức là ông đồ không hiểu và không tin được những thần thông của các thiền sư đời Lý và đời Trần, cũng như chưa chứng nghiệm và không thể tin được ở những sự huyền bí mầu nhiệm của Phật pháp.
Nhưng này là trong việc in lại vào năm 1859 này, Hòa thượng Phúc Điền thấy được trong sách in năm 1715 đó có nhiều chỗ sai làm bất nhất và Hòa thượng đã ra công hiệu đính trước khi ấn hành lại (ông viết ở đầu quyển hạ).
- Quyển hạ: gồm hai quyển sách in chung vào là:
1.Tam Tổ Thực lục: kể về ba vị tổ phái thiền Trúc Lâm (đời Trần)
2.Ngự Chế: Thiền Uyển Thống Yếu Kế Đăng Lục: tác giả sách này là Thiền sư Như Sơn, chùa Hồng Phúc ấn hành năm 1734.
Ngoài ra, trong quyển hạ, Hòa thượng Phúc Điền đã viết thêm về tiểu sử của năm thiền sư gần ông nhất và ghi chép thêm những điều ông nghe về truyển Thừa ở chùa Hoa Yên (tức chùa Vân Yên) trên núi Yên Tử, tức truyền Thừa của phái thiền Trúc Lâm: Như Trừng, Tánh Tuyên, Hải Quýnh, Như Hiện và Tánh Tĩnh.
Sau đó còn có tiểu truyện của 4 thiền sư nữa: Kim Liên, Tường Quang, Phổ Tánh và Tánh Kim (có lẽ các thiền sư thuộc hậu bối của Hòa thượng Phúc Điền thêm tiểu truyện bốn vị này thêm vào sau này”.
Quyển thượng bộ Đại Nam Thiền Uyển Truyền Đăng Tập Lục (tức sách Thiền Uyển Tập Anh Ngữ Lục được khắc bản gỗ và in tại chùa Liên Tông).
Quyển hạ bộ sách này lại được khắc bản gỗ và in ở chùa Bồ Sơn (Bắc Ninh).
Bộ sách này gồm 5 quyển nên trong bài tựa, Hòa thượng Phúc Điền gọi là:
Truyền Đăng Ngũ Quyển Tân Tư (Bài Tựa Mới Của Năm Quyển Sách Truyền Đăng)
“... Nước ta xưa kia có Bộ lục Thiền Uyển tên là Tập Anh chép đại khái về các bậc thạc đức cao tăng của ba triều đại. Tuy vậy, nội dung lỗ mỗ bất nhất, văn mạch khó phân, cho nên đã hiệu đính lại, viết cho rõ ra để khắc bản ấn hành mà bảo tồn bản cũ, làm thành quyển thơợng.
Đến triều Trần có sách Thánh Đăng Lục (Tam Tổ Thực Lục), một quyển, ghi chép về ba vị Tổ đời Trần (phái thiền Trúc Lâm), có sự tích nhưng không có hình ảnh.
Rồi đến đời Hậu Lê, Như Sơn Tổ sư tuấn thừa sách Ngũ Đăng Hội Nguyên tuyển thành ba quyển, có hình ảnh, có sự tích, từ Phật Oai Âm cho đến bảy đức Phật Thế Tôn, cho đến 47 vị Tổ Tây Trúc và hai mươi ba vị Tổ Trung Hoa, cùng pháp phái Lâm Tế tại nước ta, ba vị Tổ Chuyết Chuyết, Minh Lương và Chân Nguyên, sau nữa là tông phái Tào Động với hai Thiền sư Thủy Nguyệt và Tông Diễn.
Về tông phái Lâm Tế, từ Thượng sĩ Cứu Sinh trở về sau chưa được chép vào, do đó lão tăng thuận theo thớ tự truyền đăng, chép tiếp tiểu sử năm vị Tổ sư có hình ảnh, sự tích(2). Lão tăng đau xót nghĩ rằng ngọn đèn của chư Tổ đã sắp tàn rụi, cho nên đem hết tâm lực mình gom góp các lục, từ bộ nói về ba vị Tổ đời Trần đến bộ nói về hai phái Lâm Tế và Tào Động, gồm cả chân đế và tục đế, làm thành một tập, thêm vào đó những tập lục ngoại khoa, làm thành quyển hạ, khiến cho pháp được truyền và đèn được nối.
Một ngày tháng 11 năm Mậu Ngọ (1858), nhằm năm Tự Đức thứ 11, thầy giám tự chùa Bồ Sơn pháp danh là Phương Viên và tăng chúng môn đồ xin đem về chùa san khắc. Đêm 13 tháng ấy, thầy giám tự chùa Liên Phái (Liên Tông) pháp danh là Thanh Chiếu, nằm mơ thấy một vị thần tăng nói:
- Nhờ Đại đức hãy đi cùng với tôi tới chùa Báo Thiên xem coi sách Phật tổ thống ký(3) đã khắc xong chưa?.
Thầy Thanh Chiếu đáp:
- Bộ sách đã khắc xong, hiện nay bản gỗ được lưu lại chùa Liên Phái.
Vị thần tăng lại hỏi:
- Tôi muốn hỏi bản sách mới soạn để nối vào sách Thông ký kia. Bản này đã khắc xong chưa?.
Đáp:
- Bản này hiện đang để tại chùa Bồ Sơn, đang còn khắc bản, chưa xong.
Thầy giám tự thức giấc, sáng ấy tới chùa Báo Thiên kể lại chuyền thần tăng ứng mộng cho tôi nghe. Nghe xong tôi vui mừng quá đỗi. Có thần tăng chứng minh, tôi xin tất cả các vị có mặt phát tâm hoan hỉ bình đẳng, đủ sinh tâm hữu vô, đắc thất, thị phi, nhân ngã, tồn vong, bỉ thở, thì lão tăng này rất lấy làm hy vọng vạn lần vậy.
Tự Đức năm thứ 12, ngày 30 tháng Giêng năm Kỷ vị (1859), chùa Bồ Sơn, Hòa thượng Phúc Điền có giới đao và độ điệp soạn. Giám tự pháp danh Phương Viên thừa lệnh khắc bản, Chưởng lãnh binh tỉnh Sơn Tây là Lê Thuận Chiểu, pháp danh Đại Tuệ hưng công, môn nhân là Văn Đường vâng mệnh viết ra.

---o0o---

Đạo Giáo Nguyên Lưu

Sách Đạo Giáo Nguyên Lưu do Hòa thượng An Thiền (hay Phúc Điền) soạn, khắc in vào năm Bính Ngọ, niên hiệu Thiệu Trị thớ 6 (1846), bản gỗ lưu ở chùa Đại Giác, xã Đồ Sơn, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, sách còn có tên là “Tam Giáo Thông Khảo” hay “Tam Giáo Quản Khuy Lục” kể về nguồn gốc lưu truyền của tam giáo: Phật, Nho, Lão.
Sách Đạo giáo nguyên lưu gồm 3 quyển: tổng cộng 274 tờ, tờ 2 trang, trang có 12 hàng, mỗi hàng có 28 chữ.
+ Quyển thượng (85 tờ): nói chung về Phật giáo Việt Nam, gồm có:
- Đầu sách có bài tựa “Tân Tập Tam Giáo Quản Khuy Lục” do cư sĩ Nguyễn Đại Phương (tức Tổng đốc Nguyễn Đăng Giai) viết vào năm Ât Tỵ, niên hiệu Thiệu Trị thớ năm (1845).
- Kể sơ về Lịch sử Phật giáo Việt Nam, các việc thần thoại về Phật pháp ở Việt Nam và các điển tích có liên quan đến Phật giáo Việt Nam từ Thời chúa Võ vương đến đời vua Thiệu Trị, các tháp Phật ở Việt Nam.
- Mục “Phụng Chiếu Cầu Pháp” kể về việc Hòa thượng Trạm Công (Tánh Tuyền) sang Trung Quốc học đạo vào Thời niên hiệu Vĩnh Hựu (1735-1740) và thỉnh kinh đem về Đại Việt tàng trữ ở chùa Càn An (Thăng Long).
- Mục “Bản Quốc Thiền Môn Kinh Bản” (các bộ kinh Phật được khắc bản in ở nước ta) gồm có 180 bộ kinh, luật, luận - trong số đó có một số sách do các tác giả ngươi Việt viết:
1-Thiền Uyển Tập Anh Lục
2-Khóa Hư Lục
3-Trần Triều Tam Tổ Lục
4-Trần Triều Thập Hội Lục
5-Đạo Giáo Nguyên Lưu
6-Chuyết Công Lục
7-Kế Đăng Lục
8-Thánh Đăng Lục
9-Chư Kinh Mục Lục
10-Thượng Sĩ Lục
11-Cổ Châu Lục
12-Báo Cực Truyện
13-Tâm Nang
14-Thiện Bản
15-Thủy Lục
16-Tỳ Ni Giới Luật
17-Tam Giáo Chinh Độ
18- Lĩnh Nam Chích Quái...
- Tờ 9 đến 18 quyển thượng đề cập những vấn đề liên quan đến lịch sử Phật giáo Việt Nam, gồm các mục:
1-Đại Nam Thiền Học Sơ Khởi (Thiền học khởi đầu ở Việt Nam)
2-Hùng Vương Phạm Tăng (Sư Ấn Độ Thời Hùng Vương)
3-Đại Nam Phật Tháp (Tháp Phật ở Việt Nam)
4-Vô Ngôn Truyền Pháp (Thiền sư Vô Ngôn Thông truyền pháp)
5-Danh Chấn Triều Đình (Nổi tiếng ở triều đình)
6-Lê Triều Danh Đức (Các vị sư có đức Thời Tiền Lê)
7-Lý Triều Danh Đức (Các vị sư có đức Thời Nhà Lý)
8-Trần Triều Danh Đức (Các vị sư có đức Thời Nhà Trần)
9-Tỳ Ni Đa Lưu Chi Truyền Phép (Tỳ Ni Đa Lưu Chi truyền pháp)
10-Tuyết Đậu Truyền Pháp (Tuyết Đậu truyền pháp)
Trong mục 4, 9 và 10 kể về truyền thừa của các phái thiền Vô Ngôn Thông, Tỳ Ni Đa Lưu Chi và Thảo Đường.
Sau các mục này, sách ghi lại các việc huyền bí của Phật giáo Đại Việt như việc tịch cốc, về An Nam tứ khí (Thiền sư Không Lộ xin đồng ở triều đình Trung Quốc đem về Đại Việt đúc đại hồng chung, vạc, tượng Phật và đỉnh tháp...).
Tiếp theo đó, sách viết về Phật giáo vào Thời các chúa Nguyễn (ở Đàng Trong) và Thời nhà Nguyễn. Sự việc tin theo Phật của Nguyễn Đăng Giai (cư sĩ Đại Phương) và gia đình.
Các điển tích có liên quan đến Phật giáo trích trong các kinh Phật và trong sử sách. Phần này có thể coi như từ điển Phật học.
Từ tờ 41 quyển thơợng nói về việc dịch kinh: ”Đạo Tục Dịch Kinh”
- Tùng Lâm Chức Sự: tổ chức trong một chùa lớn.
2-Quyển trung (93 tờ): Nói về Nho giáo và những việc liên hệ giữa Nho giáo và Phật giáo như Ngụy Vũ trừ Phật, Tăng lục, quân thần tham thiền, Đại Nam lịch triều sùng Phật, bi văn san khắc, văn phong trí bảo, trúc giảm...
3-Quyển hạ (96 tờ): nói về đạo Lão và các việc liên quan giữa đạo Lão và đạo Phật, gồm các mục chính sau:
- Tổng luận về đạo Lão và các điển tích liên quan đến đạo Lão.
- Tam Giáo Đàm Luận: kể các sự việc chung của tam giáo (Phật, Nho,Lão).
- Tống Tông Bản Thiền Sư Tác Sơn Cư Bách Vịnh (tờ 11-15) viết về việc Thiền sư Tông Bản đời Tống sáng tác tập thơ “Sơn Cư Bách Vịnh” (100 bài thơ vịnh khi sống trên núi).
Thiền sư An Thiền dịch từ chữ Hán hoặc chữ Phạn ra chữ Nôm một số từ ngữ điển tích và một số bài văn ngắn như: cảm ứng thiên từ ân xuất gia trâm, phạn hoa danh nghĩa, thiện gia phan số, tam thiên tự lịch đại văn quốc âm...
Trong phần “phú bổ”, Thiền sư An Thiền kể qua một số kinh Phật được khắc in ở Việt Nam có ghi tên tác giả, năm khắc, tên người đứng ra lo khắc in, người cúng tiền, nơi tàng trữ bản gỗ khắc in kinh.
Sách Đạo Giáo Nguyên Lưu của Thiền sư An Thiền biên soạn không có hệ thống, không có phương pháp nhưng thu được nhiều tài liệu quan trọng rất có ích cho việc khảo cứu về lịch sử Phật giáo, về Phật học, về ngôn ngữ học, nhất là phần từ ngữ và điển tích sẽ giúp cho việc nghiên cứu về chữ Hán Nôm.

---o0o---

Chùa Kim Liên

Chùa Kim Liên tọa lạc tại đường Yên Phụ, phía Bắc hồ Tây, thủ đô Hà Nội.
Chùa Kim Liên được xây dựng vào đời nhà Trần (1225-1400), có lối kiến trúc kiểu chữ Tam, giống với chùa Tây Phương, hầu hết các chùa cổ ở miền Bắc được xây dựng từ đời Lý trở về trước, thế kỷ thứ I đến thế kỷ 12, đều xây theo kiểu “nội công ngoại quốc”.
Chùa Kim Liên nguyên là cung Thúy Hoa (công chúa con vua Lý Thánh Tông). Đời Trần đổi tên là chùa Đống Long. Đến đời Lê được đổi lại là chùa Đại Bi. Chùa Đại Bi lại được trùng tu năm Dương Hòa thớ 5 (tức năm 1639), đời vua Lê Thần Tông và chúa Trịnh Tráng (1623 - 1657) được ghi lại trong bia trùng tu Đại Bi tự công đức bi ký do tiến sĩ Ngô Độn Phủ soạn.
Niên hiệu Bảo Thái (1720-1729), Hòa thượng Huệ Nguyên là Nội thị của chúa Trịnh Giang, đến tu tại đây.
Năm Cảnh Hưng 32 (1771), đời vua Lê Hiển Tông, chúa Trịnh Sâm (1767-1782) trùng tu chùa Đại Bi và đổi tên chùa là Kim Liên.
Chùa Kim Liên gồm ba dãy ngang dính liền nhau, mái hai tầng, kiểu chồng diêm, bốn góc đao uốn cong vút lên cao, có trang trí đầu Phượng hoàng.
Dãy chánh điện và dãy thớ ba là tòa nhà rộng năm gian, mỗi gian rộng khoảng 4m. Dãy ở giữa chỉ rộng ba gian.
Chung quanh chùa, tường được xây bằng gạch Bát Tràng màu đỏ hồng, không có tô vôi. Vách có trang trí các cửa sổ tròn tượng trưng lý “sắc sắc - không không” của giáo lý đạo Phật.
Trong chùa có nhiều tượng Phật, Bồ tát, La hán... to lớn như người thật, chạm trổ mỹ thuật.
Năm Đinh Tỵ (1737), Phạm Đình Hổ có dịp viếng chùa Kim Liên đã mô tả lại trong sách “Tang Thương Ngẫu Lục”như sau:
Mùa Thu năm Đinh Tỵ, tôi có đến viếng chùa Kim Liên ở làng Nghi Tàm, nơi trụ trì của Hòa thượng Huệ, là Nội thị của chúa Uy vương (Trịnh Giang).
Chùa xoay lưng ra sông Nhị Hà, hồ Tây diễu quanh ở trước mặt, khói sóng man mác, trời nước một màu, lớp trong lớp ngoài đều năm gian... Đằng phía tả có mấy cái gò, xen lẫn vào trong khoảng nước hồ, tháp gạch xây ở trên, khóm trúc cội tùng phơ phất.
Đằng hậu đường có một pho tượng đội mão, cầm hốt và mặc áo văn lĩnh, hai chân đứng không, mày râu như vẽ, truyền rằng đó là ngự dung của chúa Uy vương (Trịnh Giang).
Trong chùa hiện còn bia đá: “Kim Liên Tự Bi Ký” do Tri huyện Bùi Huy Côn, Á khôi khoa Quý Mão (1843), biên soạn vào năm Tự Đức 21, ngày 27 tháng 6 năm Mậu Thìn (1868).
Chánh điện có câu đối mang ý nghĩa thiền vị sâu sắc:
Tứ trí nội viên quán thế bất cùng thiên thủ nhãn
Lục thông ngoại hiện độ sinh vô tận nhất bồ đề.

Contact Information

Phone
Array
Address Array
This entry was posted in . Bookmark the permalink.