Additional Info
Tổ Sư Thiệt Diệu Liễu Quán (1667 - 1742)
Chùa Thuyền Tôn - Huế

Theo bia tiểu sử Tổ sư còn ghi lại, chúng tôi xin trích nguyên văn như sau:
敕賜臨濟正宗三拾五世了觀和尚
諱覺圓悟和尚碑銘
夫吾教中為一大事何也生不出死關來死不入死關去是以古人巖居巢處廢寢忘
餐不惜天命皆為生死事大耳.當今之世教衰法末能為大事者故有如了觀和尚者實希矣.師原寂在富安府同春縣泊馬社黎氏子法名實耀字了觀童真入道天資高邁氣宇超群.六歲母喪即欲出塵.父即送詣會宗寺禮際圓和尚為師.經七載和尚西歸特趨順都禮覺峰老祖.至辛未年薙染甫歲歸鄉鬻薪供父荏苒四載父即謝世.乙亥再詣順都禮長壽石老和尚授沙彌戒.丁丑年禮慈林老和尚圓具足戒.己卯遍參叢社甘受淡泊心常思惟何法最為第一我決捨身命依法修行.聞諸方禪和云子融和尚善教人念佛參禪第一.任午往龍山參子融和尚向求參禪.和尚令參萬法歸一一
和尚令參萬法歸一一歸何處.日夜參究至八九年一無所得心甚慚惶.一日因看傳燈至指物傳心人不會處.忽然會入因海隔山遙呈悟弗能.至戊子春方往龍山求和尚證明將所做功夫遂一呈證.至指物傳心人不會處.和尚云,懸崖撒手自肯承當絕後再甦欺君不得作麼生道看? 師撫掌呵呵大笑.尚云,未在.師云,秤錘原是鐵.尚云,未在.次日尚云,昨者公案未完.再道看.師云,早知燈是火飯熟已多時.尚大稱讚.壬辰夏.和尚來廣進全院.師呈浴佛偈,舉云.祖祖相傳佛佛授受,未審傳受個甚麼.師云,石筍抽倏長一丈,龜毛拂子重三斤.尚復舉云,高高山上行船,深深海底走馬.又作麼.師云,折角泥牛徹夜吼,沒弦琴子盡日彈.一一拈出入室求證.和尚看完大悅,深許印可.師臨機智辨函蓋相合水乳相投,機緣甚多不錄.壬寅年,師來順都住祖庭.癸丑甲申乙卯應諸護法宰官居士及緇素等請歷開四大戒壇.庚申進龍華放戒.復回祖庭.當今聖君重德為法心殷.嚮師道味詔敕入宮緣師高尚志在林泉,謝詔不赴.壬戌春重開戒壇於圓通寺.秋來示染微疾狀似無病.至拾月間謂門人曰.吾將歸矣.世緣已盡侍徒諸人悉皆涕泣.師曰.汝等悲泣阿誰.諸佛出世猶示涅盤.吾今來去分明.歸必有所汝等不合悲泣.至十一月.於示寂數日之前.端坐索筆書偈辭世.偈云:
七十餘年世界中 空空色色亦融通
今朝願滿還家裏 何必奔忙問祖宗
雖然如是.老僧最後句作麼生道.巍巍堂堂煒煒煌煌,昔日這個來今朝這個去要問來去事若何.湛湛碧天秋月皓.大千沙界露全身,吾去後.汝等當思無常迅速,勤學般若毌忽吾言各宜勉之。及二十二日黎明茶話行禮畢問曰.今何時乎? 門人對曰,未時也.宴然而逝.奏聞.敕賜碑記獎大師道行謚正覺圓悟和尚.
師生丁未年十一月十八日辰時.春秋七十有六.四十三傳衣說法利生.三十四載嗣法四十九人緇素得道利者不計千萬.癸亥年二月十九日入塔.塔建在香茶縣安舊山天台之南也.繼值南詢聞師道風高峻.行化是邦度人無數契佛祖心斷衲子命行解真實.遐邇共欽惜乎不及見耳。玆諸門人及薙徒等念塔既造記應隨立.知繼是個中人必諳個中事,所以特來徵銘立石。繼愧筆墨荒蔬安敢承任.但添在法門中.誼固難辭.兼欽風有素若不為其闡揚法化。則後世無述焉。
噫!以世諦目之,則有生滅去來之相若以道眼視之.則不然。師雖寂滅已證於涅盤之城。處不生不滅之所焉。用讚為因。師生前有許多鴻功偉績.自不可埋沒其世間將入道因緣恐未得其詳.即以撰次.譬如肓人摸象.只知一端而已.銘曰﹕
潺沱衍派 源遠流長
慧燈續焰 祖道重光
兒孫無數 如象如龍
寶山突出 異目超宗
無礙智辯 痛快機鋒
化權既斂 孰紹高風
天台之麓 翠堵無縫
法身獨露 萬象之中
景興九年四月日
中華福建省溫陵桑蓮寺法姪善繼和南撰
VĂN BIA THÁP MỘ TỔ LIỄU QUÁN
Dịch nghĩa :
Bia Minh Tháp của Hòa thượng Liễu Quán thuộc dòng Lâm Tế Chánh Tôn đời thứ 35 được sắc phong là Chánh Giác Viên Ngộ
Ôi, trong giáo pháp Phật đà của ta, việc trọng đại nhất là gì ? Con người sinh ra không từ cửa tử mà đến, chết không vào cửa tử mà đi. Thế nên người nằm non ở tổ, bỏ ngủ quên ăn, chẳng tiếc thân mạng, đều vì việc lớn sinh tử.
Ở thời giáo suy pháp mạt này mà có người vì việc lớn sinh tử như Hòa thượng Liễu Quán, thật là hy hữu.
Sư sinh giờ Thìn, ngày 18 tháng 11, năm Đinh Mùi (1667) tại làng Bạc Mã, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên (nay là làng An Thạch, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên). Sư họ Lê, húy Thật Diệu, hiệu Liễu Quán; đi tu từ nhỏ. Sư có thiên tư cao lớn, khí vũ siêu quần. Sáu tuổi mồ côi mẹ, chí muốn xuất trần, được thân sinh đưa đến chùa Hội Tôn xin tu học với Hòa thượng Tế Viên; được 7 năm thì Hòa thượng viên tịch. Sư tìm ra Huế đô lễ Giác Phong Lão tổ ở chùa Hàm Long - Báo Quốc.
Năm Tân Mùi (1691) vừa xuống tóc xuất gia tròn một năm sư lại trở về quê Phú Yên hằng ngày bán củi nuôi cha. Thắm thoắt bốn năm thì cha qua đời.
Năm Ất Hợi (1695), Sư trở lại Thuận đô thọ giới Sa-di với Hòa thượng Thạch Liêm. Hai năm sau, nhằm năm Đinh Sửu (1697), thọ giới Cụ túc với Từ Lâm Lão Hòa thượng.
Năm Kỷ Mão (1699), Sư tham lễ khắp chốn tòng lâm, cam sống đời đạm bạc, tâm thường suy nghĩ: "Có pháp gì cao siêu nhất ta quyết bỏ thân mạng để theo pháp đó tu hành". Nghe nhiều bậc thiền hòa các nơi nói: "Hòa thượng Tử Dung là vị khéo dạy người niệm Phật, tham thiền nhất".
Năm Nhâm Ngọ (1701), Sư tìm đến Long Sơn, tham yết Hòa thượng Tử Dung, cầu pháp tham thiền. Hòa thượng dạy tham cứu câu "Vạn pháp quy nhất, nhất quy hà xứ" - "Muôn pháp về một, một về chỗ nào". Ngày đêm tham cứu, trải qua tám chín năm mà không ngộ được gì, tâm rất hỗ thẹn. Ngày nọ nhân đọc Truyền Đăng Lục đến câu "Chỉ vật truyền tâm, nhân bất hội xứ" - "Chỉ vật truyền tâm, chỗ người không hiểu" bỗng nhiên ngộ nhập. Song vì biển núi xa cách, không thể trình bày chỗ ngộ với Thầy.
Mãi đến xuân Mậu Tý (1708) mới trở lại Long Sơn cầu Hòa thượng Tử Dung chứng minh, đem công phu tham cứu trình xin ấn chứng, đến câu "Chỉ vật truyền tâm, nhân bất hội xứ", Hòa thượng dạy:
- Huyền nhai tán thủ, tự khẳn thừa đương; tuyệt hậu tái tô, khi quân bất đắc
(Vực thẳm buông tay, tự mình đương lấy; chết đi sống lại, dối ông sao được).
Thế nào, thế nào, nói xem.
Sư vỗ tay cười lớn:
- Ha ha !
Hòa thượng dạy:
- Chưa nhằm.
Sư thưa:
- Bình chùy nguyên thị thiết
( Cái cân nguyên là sắt) .
Hòa thượng dạy:
- Chưa nhằm.
Hôm sau, Hòa thượng dạy:
- Công án ngày qua chưa rồi, nói lại xem.
Sư thưa:
- Tảo tri đăng thị hỏa, phạn thục dĩ đa thời
( Sớm biết đèn là lửa, cơm chín đã lâu rồi ).
Hòa thượng rất khen.
Mùa hạ năm Nhâm Thìn (1712), Hòa thượng đến sách tấn rộng rãi toàn viện, Sư trình bài kệ "Dục Phật" (Tắm Phật), Hòa thượng hỏi:
- Tổ Tổ tương truyền, Phật Phật thọ thọ, vị thẩm truyền thọ cá thậm ma?.
(Tổ Tổ truyền cho nhau, Phật Phật trao nhận với nhau, chưa rõ trao nhận cái gì?).
Sư đáp:
- Thạch duẩn trừu điều trường nhất trượng; quy mao phất tử trọng tam cân
(Măng đá nảy cành dài một trượng; phủ phất lông rùa nặng ba cân).
Hòa thượng lại dạy:
- Cao cao sơn thượng hành thuyền, thâm thâm hải để tẩu mã
(Thuyền đi trên đỉnh núi cao; ngựa chạy dưới đáy biển sâu là thế nào?)
Sư thưa:
- Chiết giác nê ngưu triệt dạ hống, một huyền cầm tử tận nhật đàn
(Đàn cầm đứt dây rung suốt buổi; trâu đất gãy sừng rống thâu đêm).
Mỗi mỗi nêu ra và vào thất cầu chứng, Hòa thượng xem xong, rất vui, rất bằng lòng ấn khả. Sư gặp cơ hội, lấy trí biện đáp rất thích hợp, như nắp đậy hộp, sữa hòa nước. Cơ duyên rất nhiều, không thể chép hết.
Năm Nhâm Dần (1722), Sư trở lại Huế đô, trú ở Tổ đình luôn trong ba năm Quý Sửu, Giáp Dần và Ất Mão thể theo lời thỉnh cầu của Cư sĩ Tể Quan hộ pháp và các hàng xuất gia tại gia, mở bốn giới đàn lớn.
Năm Canh Thân (1740) lại tấn đàn Long Hoa truyền giới rồi trở về Tổ đình.
Bấy giờ chúa Nguyễn quý trọng đạo đức Sư, có tâm ân cần vì pháp đối với đạo vị của Sư nên xuống chiếu sắc mời Sư vào cung, nhưng Sư vốn cao thượng, chí nguyện ở suối rừng mà tạ từ chiếu chỉ, không đến.
Mùa xuân năm Nhâm Tuất (1742) lại mở giới đàn ở chùa Viên Thông; đến mùa thu năm ấy nhuốm bệnh nhẹ, giống như không bệnh; đến giữa tháng 10, Sư gọi môn đồ đến dạy rằng:
- Duyên ở đời đã hết, ta sắp đi đây.
Môn đồ khóc lóc, Sư bảo:
- Các ngươi khóc cái gì? Chư Phật ra đời còn nhập Niết-bàn, ta nay đến đi rõ ràng, về tất có chỗ, các ông không nên buồn khóc.
Đến tháng 11 năm ấy, trước khi thị tịch mấy ngày, Sư ngồi ngay thẳng, lấy viết chép kệ từ biệt đời. Kệ rằng:
"Hơn bảy mươi năm trong thế giới,
Không không sắc sắc thảy dung thông,
Ngày nay nguyện mãn về nhà cũ,
Nào phải bôn ba hỏi Tổ tông".
Tuy nhiên như vậy, câu cuối cùng của Lão tăng hiểu thế nào, hãy nói:
"Nguy nguy đường đường, vĩ vĩ hoàng hoàng.
Tích nhật giá cá lai, kim triêu giá cá khứ, yếu vấn lai khứ sự nhược hà.
Trạm trạm bích thiên thu nguyệt hạo, đại thiên sa giới lộ toàn thân
(Nguy nguy đường đường, sáng láng rực rỡ.
Ngày xưa cái ấy đến, ngày nay cái ấy đi, cần hỏi việc đến đi thế nào.
Trời xanh lặng lặng trăng thu sáng, thế giới đại thiên lộ toàn thân).
Sau khi ta đi, các ông hãy nên nghĩ đến vô thường mau chóng, siêng học Bát-nhã, chớ bỏ qua lời ta. Mỗi người hãy nên cố gắng. Vào ngày 22, sáng sớm uống trà, nói chuyện và hành lễ xong, Sư hỏi:
- Bây giờ là giờ gì?
Môn đồ đáp:
- Giờ Mùi.
Sư an nhiên thị tịch. Chúa sắc làm bia ký ca ngợi đạo hạnh của Sư, ban thụy hiệu là: Chánh Giác Viên Ngộ Hòa Thượng.
Sư sinh giờ Thìn ngày mười tám tháng 11 năm Đinh Mùi, thọ 72 tuổi; 43 năm được truyền y, 34 năm thuyết pháp lợi sinh. Đệ tử nối pháp có 49 người. Hàng tại gia, xuất gia được lợi ích nhờ sự hóa đạo của sư có cả ngàn vạn.
Ngày 19 tháng 2 năm Quý Hợi (1743), nhập tháp tại phía nam núi Thiên Thai thuộc xã An Cựu, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên.
Kế tôi gặp lúc đi đến phương nam hỏi han, nghe nói Sư đạo phong cao lớn, hành hóa ở xứ này, độ người vô số, khế hợp tâm Phật tổ, nối đời xuất gia, công hạnh và kiến giả chơn thật, xa gần đều khâm phục. Rất tiếc tôi không kịp được gặp. Nay các môn nhân và đồ chúng nghĩ rằng: Tháp đã làm xong, cần phải dựng bia ký, biết Kế tôi là người trong cuộc, chắc biết việc trong cuộc nên đặc biệt yêu cầu tôi viết bài minh để dựng bia. Kế tôi thẹn mình bút mực sơ sài, đâu dám nhận lãnh. Song kẻ hèn này đã ở trong cửa pháp, tình pháp hữu hẳn khó chối từ; vả lại, khâm phục đạo phong cao khiết, nếu không nêu cao sự nghiệp hoằng pháp độ sinh của Sư thời đời sau không có ai chép lại.
Ôi, nếu lấy mắt thường xem thời thấy có tướng sinh diệt đi lại; nếu lấy mắt đạo xem thời không phải vậy. Sư tuy tịch diệt mà thật đã chứng cảnh Niết-bàn không sinh không diệt, đâu cần tán dương. Nhưng vì Sư trong lúc ở đời có nhiều công đức, sự nghiệp lớn lao, không thể để cho mai một. Song sự tướng ở đời và nhân duyên vào đạo của Sư sợ chưa được rõ hết, nên tôi soạn lời bia ký này; thí như người mù sờ voi, chỉ ghi lại được đôi phần mà thôi.
Bài minh ghi rằng:
Lờ đờ nước chảy, Nguồn xa dòng dài
Đèn tuệ nối lửa Đạo tổ sáng hòai
Cháu con vô số Như voi như rồng
Núi báu bỗng hiện Tôn phong siêu lạ
Trí biện dung thông Cơ thiền nhạy bén
Hóa duyên đã mãn Ai nấy tôn phong
Bên núi Thiên Thai Dựng tháp Vô Phùng
Pháp thân hiển lộ Ở giữa muôn trùng.
Năm Cảnh Hưng thứ 9 (1748), tháng Tư, ngày Tốt, Trung Hoa, Phúc Kiến, Huyện Ôn Lăng, chùa Tang Liên, cháu trong đạo là Hòa thượng Thiện Kế soạn.
(HT.Thích Thiện Siêu dịch)
*
Căn cứ vào bia khắc ở trên, hiện chúng ta biết về tiểu sử của Ngài như sau:
Tổ Liễu Quán theo tấm bia đá gắn vào bên trong thành phía đông của tháp Ngài ở núi Thiên Thai do một nhà sư xưng là cháu trong đạo (Pháp điệt) tên là Thiện Kế ở chùa Tang Liên Ôn Lăng, tỉnh Phúc Kiến soạn và khắc vào tháng 8 năm Cảnh Hưng thứ 9 (1748) đôi nét về Ngài. Ngài là họ Lê, ở làng Bạc Mã, huyện Đồng Xuân, phủ Phú Yên. Ngài sinh vào giờ Thìn ngày 18 tháng 11 năm Đinh mùi, Tây lịch là năm 1667, nhằm niên hiệu Cảnh Trị thứ 5 đời vua Lê Huyền Tôn. Ở Thuận Hóa lúc này là vào đời chúa Nguyễn Phúc Tần (1648-1687).
Năm Ngài lên sáu tuổi (1672) thì mẹ mất, năm 1673, thân phụ Ngài chấp nhận lời xin của Ngài và đã đưa Ngài đến chùa Hội Tôn xin học với Thiền sư Tế Viên, đang hoằng hóa tại chùa này . Với tư chất thông minh, tâm đạo vững, Ngài thờ Thiền sư Tế Viên làm thầy, và như thế Ngài đã ở hàng "đồng chơn xuất gia".
Trải qua 7 năm thì Bổn sư Ngài viên tịch (1680). Lúc này Ngài được 14 tuổi và Ngài đã xin phép phụ thân ra Thuận đô “tìm thầy học đạo”.
Nên biết rằng Tổ Liễu Quán, tuy lúc đó chỉ mới là chú điệu 14 tuổi, chưa thọ Sa di; nhưng đã quyết tâm cầu đạo; vượt dặm ngàn để ra Xuân Kinh, một mình theo thuyền buôn đổ bộ vào Tư Dung, rồi lại đi mãi về tận Hàm Long, vào lễ Tổ Giác Phong ở thảo am Hàm Long Thiên Thọ, cầu Tổ nhận cho tu học; không hề chấp trước việc ăn ở kham khổ, đạm bạc, chỉ một niềm xả thân cầu đạo. Ngài được Tổ Giác Phong nhận vào tu học trong một thời gian trên dưới mười năm .
Năm Tân Mùi (1691), đã xuống tóc mới được hai năm, Ngài phải trở lại quê hương để nuôi dưỡng cha già bị bệnh.
Gần bốn năm sau, có lẽ vào đầu năm Ất Hợi (1695) phụ thân Ngài tạ thế.
Sau khi lo ma chay cho thân phụ xong thì Ngài trở lại Phú Xuân, để tu học tiếp. Ngài đi trong khoảng tháng 3 năm Ất Hợi này. Vì ngày mồng một tháng tư năm đó, chúa Nguyễn Phúc Chu thỉnh Thiền sư Thạch Liêm làm Đường đầu Hòa thượng tại giới đàn Thiền Lâm, thì lúc đó Tổ Liễu Quán đã có mặt để thọ Sa-di giới. Tính theo năm sinh ghi ở văn bia, lúc thọ Sa di này Ngài đã được 28 tuổi. Sau khi giới đàn viên mãn, Ngài đi tìm một nơi gần các thảo am của chư Tổ thời đó, để ở và tự tu học. Có thể lúc này, Ngài đã vào chân núi Hòn Mô - tức núi Ngự Bình hiện nay, và gặp cái am tranh tại đó. Không phải Ngài dựng am tranh, mà cái am này vốn đã có từ xưa ở chân núi Ngự Bình. Dấu tích am tranh ấy hiện nay là “Linh Tiêu Điện” ở cạnh chùa Viên Thông nguyên. Theo truyền thuyết dân gian vùng Ngự Bình thì am ấy thờ thần núi. Ngài đến và bảo: “Am thờ ai không biết, cho bần đạo mượn để ở tu hành đã”, nói xong, Ngài để bát nhang qua một bên và tôn trí tượng Phật để biến thành "thảo am" của một nhà tu. Đêm đó, toàn dân vùng chân núi Hòn Mô được thần báo mộng là thần phải đi nơi khác, vì có vị Bồ-tát nhục thân quá lớn đã đến mượn nơi thần ở để tu Thiền.
Hai năm sau, tức là năm Đinh Sửu (1697) Ngài trở ra Từ Lâm an trú thiền thất của Tổ Từ Lâm, cầu thọ Cụ túc giới với Tổ.
Năm Kỷ Mão (1699), Tổ Liễu Quán đã rời thảo am Từ Lâm để đi cầu tìm thầy học đạo.
Vẫn theo văn bia này thì Ngài đã đi khắp đó đây trong vùng Ngũ Bình sơn, Lâm Lộc, quyết xả thân cầu Pháp.
Năm Nhâm Ngọ (1702) Ngài "gặp" được Tổ Tử Dung trao công án. Tổ Liễu Quán phải mất đến 5 năm đi tìm tòi, nghe ngóng khắp rừng Thiền Thuận Hóa để "gặp" được vị Thiền Tổ truyền dạy "Pháp tối vi đệ nhất" mới khó khăn đến thế !
Sau khi nhận công án, có lẽ Ngài lập ra một thảo am khác gần chùa Ấn Tôn (Từ Đàm) để về sau trở thành chùa Cát Tường hoặc còn gọi là chùa Viên Giác phía sau Báo Quốc ở vùng Lịch Đợi hiện nay. Nhưng sau đó, tham công án chưa được, Ngài lại trở về Phú Yên.
Nếu Ngài không trở về Phú Yên, thì sao có cảnh “hải cách sơn diêu” tức là “bị biển cách núi ngăn” được? Cho nên, mãi đến mùa xuân năm Mậu Tý (1708), Ngài mới trở ra lại Long Sơn để cầu Hòa thượng ấn chứng. Nhưng lần này, Ngài chưa được ấn khả; nên Ngài lại đi vào một dãy núi xa hơn và cao hơn để lập một thảo am mới; đó là thảo am ở núi Thiên Thai, một hòn núi nổi tiếng nhiều cọp vào các thế kỷ thứ XVII, XVIII tl. ở Thuận Hóa, để tham thiền nhập định. Thảo am đó về sau trở thành chùa Thiên Thai Thuyền Tôn Tự.
Ở thảo am này, Ngài đã xuống vớt rong dưới con suối gần đó để ăn hàng ngày. Cho đến mùa hạ năm Nhâm Thìn (1712), trong kỳ an cư kiết hạ của chư Tăng hai xứ Thuận Quảng tại Thiền Lâm Viện do Tổ Minh Hoằng Tử Dung làm Thiền chủ, thì Ngài mới được ấn khả mà theo thuyết truyền là khi trình Kệ "Dục Phật" lên Tổ sư. Tổ sư hỏi :
- Tổ tổ tương truyền, Phật Phật thọ thọ, vị thẩm truyền thọ cá thậm ma? (祖祖將傳佛佛授受未審傳受個甚魔). (Chư tổ truyền cho nhau, chư Phật trao và nhận, chẳng biết truyền, nhận cái gì?)
Sư đáp:
- Thạch duẩn trừu điều trường nhất trượng, quy mao phất tử trọng tam cân (石筍抽倏長一丈,龜毛拂子重三斤)。(Cành chồi măng đá dài một trượng, Cây chổi lông rùa nặng ba cân).
Thiền Tổ đọc: - Cao cao sơn thượng hành thuyền, thâm thâm hải để tẩu mã, hựu tác ma sinh?(高高山上行船深深海底走馬,又作魔生?)(Đi thuyền trên núi cao, cưỡi ngựa đáy biển sâu, thì thế nào?)
Sư đáp : - Chiếc giác nê ngưu triệt dạ hống, một huyền cầm tử tận nhật đàn (折角泥牛撤夜吼沒絃琴子盡日彈). (Trâu bùn sừng gãy thâu đêm rống, Đàn cầm không dây suốt ngày vang). Chính giờ phút này mà Tổ Liễu Quán đắc ngộ và được truyền tâm ấn; chứ không phải là được truyền tâm ấn vì bài kệ "Dục Phật" vậy. Tổ Liễu Quán được Tổ Minh Hoằng Tử Dung “truyền tâm ấn” và cho Pháp húy là Thiệt Diệu để thành Tổ thứ 35 của Lâm Tế chánh tông, và gọi là Tổ Thiệt Diệu Liễu Quán. Từ đây một phái Thiền mới thuộc dòng Thiền Lâm Tế đã được khai sáng ở Thuận Hóa gọi là Thiền Tử Dung - Liễu Quán. Phái Thiền này đã được Tổ Thiệt Diệu Liễu Quán biệt xuất một dòng kệ 48 chữ:
實 際 大 道
性 海 清 澄
心 原 廣 閏
德 本 慈 風
戒 定 福 慧
體 用 圓 通
永 超 智 果
密 契 成 功
傳 持 妙 理
演 暢 正 宗
行 解 將 應
達 悟 真 空
Phiên âm:
Thiệt Tế Đại Đạo,
Tánh Hải Thanh Trừng,
Tâm Nguyên Quảng Nhuận,
Đức Bổn Từ Phong.
Giới Định Phước Huệ,
Thể Dụng Viên Thông,
Vĩnh Siêu Trí Quả,
Mật Khế Thành Công
Truyền Trì Diệu Lý
Diễn Sướng Chánh Tông,
Hạnh Giải Tương Ưng,
Đạt Ngộ Chân Không.
Tạm dịch:
Đường lớn chơn thật
Biển tánh lắng trong
Nguồn tâm rộng thóang
Gốc đức gió lành
Giới định phước tuệ
Thể dụng dung thông
Trí quả vượt qua
Khế hợp thành công
Truyền trao chơn lý
Phát triển chính tông
Hạnh giải tương ưng
Ngộ thấu nguồn chân.
Sau đó Ngài đã đi hoằng truyền rộng rãi khắp miền Trung hiện nay và vào cả nhiều tỉnh trong Nam. Văn bia cũng cho biết Ngài đã thuyết pháp 34 năm: 四十三傳衣說法利生三十四載嗣法四十九人“Tứ thập tam truyền y, thuyết Pháp lợi sanh; tam thập tứ tải, tự Pháp tứ thập cửu nhân”. (bốn mươi ba năm truyền y, thuyết pháp lợi sanh, ba mươi bốn năm truyền pháp được bốn mươi chín người.)
Như vậy, là Tổ đã thuyết Pháp lợi sanh và nhận đồ đệ trong ba mươi bốn (34) năm kể từ năm 1708 đến năm Nhâm Thìn (1712), Tổ được Tổ Minh Hoằng Tử Dung trao tâm ấn, thì chùa Thuyền Tôn trở thành một đạo tràng lớn, có hàng vạn đồ đệ tới lui cầu Pháp. Trong đó có hạng tể quan ở phủ chúa Nguyễn, có hạng môn nhân xuất thân từ các đẳng cấp trong xã hội, có hạng nhà Nho cư sĩ, tuy ở nhà, nhưng vẫn thường lui tới đạo tràng Thuyền Tôn để nghe Tổ thuyết Pháp. Thời hừng đông của Pháp phái Thiền Tử Dung - Liễu Quán khởi sự nảy mầm và phát triển rực rỡ rất mau tại cõi Thuận Hóa Quảng Nam và lan rộng về phía sau nữa.
Đã thế, sau khi đắc đạo, Tổ lại trở về Phú Yên để hoằng đạo; đi lại về. Thuận Đô, Phú Yên là con đường hóa đạo, Tổ cứ đi về trong mười năm như thế, cho nên Thiền Lâm Tế Minh Hoằng Tử Dung - Liễu Quán được phát triển rộng rãi vào cả đàng trong. Văn bia viết tiếp: “Nhâm Dần niên (1722) sư lai Thuận Đô trú Tổ đình”. Cho đến lúc này, chùa Thuyền Tôn đã trở thành một Tổ đình lớn thật sự, vì đó là nguồn của cả một phái Thiền Lâm Tế của Thuận Hóa nói riêng và Nam Hà nói chung. Sau khi được “truyền tâm ấn”, Tổ Liễu Quán cứ đi đi về về giữa Phú Yên và Thuận Hóa, mở địa vực hóa duyên rất rộng. Năm Nhâm Tuất (1742), sáng ngày 12 tháng 11 Ngài thị tịch sau khi di chúc bài kệ thị tịch:
“Hơn bảy mươi năm trong thế giới,
Không không sắc sắc thảy dung thông,
Ngày nay nguyện mãn về nhà cũ,
Nào phải bôn ba hổi tổ tông”.
Tuổi đời thọ được 76. Chúa Võ vương Nguyễn Phúc Khóat (1738-1765) ban thụy hiệu là Chánh Giác Viên Ngộ Hòa thượng. Tháp Tổ xây tại núi An cựu ở phía Nam núi Thiên Thai, thuộc huyện Hương Trà, phủ Triệu Phong thời chúa Nguyễn. Nay, thuộc huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên.
(HT.Thích Thiện Siêu dịch)
|