Personal Information
Danh Tánh
|
TS Thiệt Uyên Chí Bảo
|
|
Gender | ♂️ Male |
Hành Trạng
Additional Info
CHÙA THIÊN ĐỨC & THÁP THIỀN SƯ THIỆT LƯƠNG Chùa Thiên Đức tọa lạc trên đường Nhị Trưng, phường Tân An, thành phố Hội An. Từ ngoài đường nhìn vào, khách sẽ không biết đây là một ngôi chùa bởi chùa làm theo kiểu xưa, thấp, nhỏ, trước có bóng cây che phủ và không có cổng như các ngôi cổ tự khác nên nhiều người lầm tưởng đây là một từ đường dòng họ. Phổ Tuyền Am Xung quanh đường viềng không có trang trí họa tiết hoa văn. Đường viếng phía dưới khắc số 1732. Có thể người sau khắc năm lập bức hoành chăng? Lí giải từng lạc khoản, chúng ta sẽ có nhiều thông tin bổ ích trong việc đưa ra năm lập chùa. Đầu tiên, xét lạc khoản bên trái có ghi rõ niên hiệu là năm Vĩnh Khánh thứ 5. Chùa Thiên Đức bên trái ảnh Tại lạc khoản phía tay mặt đề ngày tháng năm thượng lương. Bức hoành ghi là năm Quí Sửu. Tra vào Niên biểu Việt Nam và kết hợp niên hiệu, chúng ta biết năm Quí Sửu là năm 1733. Năm này chính là năm Vĩnh Khánh thứ 5 mà bức hoành ghi lại trên lạc khoản bên trái. Qua hai thông tin từ lạc khoản, chúng ta biết ngày Sửu tháng Kỷ năm Quí Sửu thì cho thượng lương dựng am Phổ Tuyền và cũng chính năm này người ta đã lập một bức hoành để treo làm kỷ niệm nhân sự kiện quan trọng đó.
Một cây xà cò ở tiền đường có đề câu chữ hán như sau: “Tự Đức thập niên Đinh Tỵ quí thu cát nhật Đinh Quảng Sỹ, Đinh Quảng Huỳnh đồng trùng tu”. Nghĩa là hai ông Đinh Quảng Sỹ, Đinh Quảng Huỳnh cùng trùng tu vào ngày lành cuối thu năm Đinh Tỵ niên hiệu Tự Đức thứ mười (1857).
Còn một cây xà cò khác trong hậu tẩm ghi: “Thành thái Thập Nhất niên Kỷ Hợi trọng thu cát đán huyền tôn Đinh Hoài Minh trùng tu”. Nghĩa là Chắt Đinh Huyền Minh trùng tu vào ngày lành giữa thu năm Kỷ Hợi niên hiệu Thành Thái thứ 11 (1899).
Hai bức hoành, hai câu liễn treo hai bên gian thờ đều ghi năm Bảo Đại Tân Mùi tức năm 1931, có thể trong năm này chùa lại được trùng tu. Mãi đến năm 1972, Đinh Văn Vĩnh mới đứng ra trùng tu lại.
Qua các đợt trùng tu, chúng ta vẫn thấy ngôi chùa có một vẻ đẹp cổ kính theo kiến trúc Á Đông. Chùa làm theo mô hình ba gian hai chái, gian giữa có một khám thờ Phật, giữa khám thiết tôn tượng đức Phật Di Đà ngôi theo thế liên hoa, phía dưới có tượng Quan Âm thủ quyển, đức Phật đản sinh cở nhỏ, và một số tượng thánh. Gian trái có một khám thờ hai vị thiền sư là Thiệt Lương và Hải Lương Chí Trạm. Thiền sư Thiệt Lương thuộc đời chính tông Lâm Tế thứ 35, khai sơn Đinh Môn tức ngôi chùa Thiên Đức. Còn vị kia thấy đề “Khai sơn viên tịch sa di pháp danh Hải Lương hiệu Chí Trạm giác linh”. Không biết vị Hải Lương khai sơn chùa nào và vị này mới thụ giới sa di. Về thiền sư Thiệt Lương, chúng tôi sẽ bàn kỹ trong phần ngôi tháp của ngài vẫn còn tại bổn tự. Riêng vị Hải Lương chắc thuộc dòng Lâm Tế phái Đột Không Trí Bản. Phái này có sự ảnh hưởng lớn đến Phật Giáo tại Đàng Trong thời các chúa Nguyễn. Có thể hai vị này đều họ Đinh?
Gian bên phải có một khám thờ dòng tộc họ Đinh. Bài vị đề: “Phụng vì Tế dương quận Đinh tộc đường thượng lịch đại tông thân”.
Phía sau có ba bàn thờ, gian giữa thờ đức Địa Tạng Bồ Tát, có tượng thần Thổ Địa. Theo một vị trông chùa cho biết, tượng thổ địa nguyên thờ phía trước cửa bên phải. Do bị mất trộm tượng Hộ Pháp phía trái nên mang vào phối thờ phía sau. Hai bên là bàn linh thờ các hương linh tộc Đinh. Các khám thờ và bàn thờ ở đây được làm bằng chất liệu gỗ, sơn son thếp vàng rất đẹp. Các bức phù điêu trạm trổ khá đẹp mang phong cách mỹ thuật thời Nguyễn. Chùa còn có một tấm ván khắc tượng Quan Âm trông rất uy nghiêm, tiếc rằng tượng khắc ván này thiếu phần dưới.
Phía trước chùa còn có miếu Ngũ Hành, theo tục thờ mẫu ở các chùa thuộc tỉnh miền trung. Miếu thờ NGŨ HÀNH TIÊN NƯƠNG Bia bên trái ghi: "Phụng cúng cô đợi tổ cô Đinh Thị Bất Thức Danh chư tiên linh liệt vị. Bia bên phải ghi:"Quý Hầu Quý Công - Tài Hầu Quý Công" Phía sau miếu có một ngôi tháp khá xưa, làm bằng chất liệu vôi. Ngôi tháp có hai tầng, trên đỉnh tháp có một búp sen. Nếu tính luôn thì tháp có ba tầng. Ngôi tháp làm theo kiểu bát giác, truyền thống của các tháp tổ tại miền trung. Xung quanh có thành bao bọc, phía sau khoảng giữa bức tường thành có xây bình phong hậu đầu cao lên. Phía trước có hai trụ cổng.
Một vấn đề đặt ra là tên chùa Thiên Đức xuất hiện khi nào. Điều tra thực địa không có một cứ liệu nào xác định rõ năm đặt tên chùa là Thiên Đức, chỉ có thể đặt trong khoảng cách các năm. Vì lúc đầu thiền sư Thiệt Lương lập am Phổ Tuyền vào năm 1733 thì chưa xuất hiện tên Thiên Đức, đến năm Mậu Dần (1758) thì thấy tên Thiên Đức trong văn bia. Do đó, tên Thiên Đức chỉ xuất hiện trong khoảng 1733-1758 là điều có thể suy ra được. Còn năm Giáp Thân (1728) chính là năm ngài lập am tranh để tu trì và chính năm này là năm lập chùa chăng? |
Contact Information
Phone
|
Array |
Address | Array |