TS Tiêu Sơn Như Trí

Personal Information

Danh Tánh
TS Tiêu Sơn Như Trí - Ðời Thứ 34 Tông Lâm Tế - Ðời Thứ 4 Dòng Lâm Tế Đàng Ngoài
Gender ♂️ Male

Hành Trạng

Additional Info

Thiền Sư Như Trí
( ? - 1722)

Hiện chưa biết rõ hành trạng của Thiền sư Như Trí, chỉ biết Thiền sư Như Trí là đệ tử của Hòa thượng Chân Nguyên-Chánh Giác (Hòa thượng Tuệ Đăng). Sau khi đắc pháp, trở về trụ trì chùa Thiên Tâm ở núi Tiên Sơn (Bắc Ninh).
Năm 1715, Thiền sư Như Trí đứng ra lo khắc in lại sách “Thiền Uyển Tập Anh Ngữ Lục”. Khi khắc in lại sách này, Thiền sư Như Trí lại nhờ một ông đồ nho xem lại và viết bài tựa, vì vậy, sách này có đôi chỗ có thể sai lầm.
Phụ giúp cho Thiền sư Như Trí trong việc in lại sách Thiền uyển tập anh ngữ lục là các Sa di: Tánh Như, Tánh Trung, Tánh Kiến, Tánh Quán, Tánh Huy, Tánh Bản.
Năm 1859, Hòa thượng Phước Điền lấy bản in này khắc in lại trong sách “Đại Nam Thiền Uyển Truyền Đăng Lục”.
Hiện chúng ta chưa biết vì sao khi trùng khắc sách Thiền Uyển Tập Anh Ngữ Lục, Thiền sư Như Trí không nhờ Thiền sư Chân Nguyên hiệu đính và viết bài tựa, lại nhờ một nhà nho không hiểu rõ về Phật giáo như thế?
Trong bài tựa trùng khắc năm 1715 này, nhà nho đó đã viết: “Sau buổi giảng dạy ở Chiên Đường, tôi thấy một thiền giả đến đàm luận về đạo Phật. Những chuyện chúng tôi đàm đạo đều thuộc về những vấn đề của đạo Phật, như biểu tượng lông rùa, sừng thỏ. Rồi lấy trong tay áo ra một cuốn lục tên là Tập Anh, nhờ tôi xem và khảo đính để tránh những lỗi lầm trước khi khắc in lại. Thấy trong bộ lục này có nhiều cao thiền danh tổ, sức học cao viên, đạo đức linh diệu, bất giác tôi thấy trong lòng nẩy sinh ra sự kính phục. Những bậc này đàm luận về chân không, thuyết pháp về giác ngộ, đề tài vốn không nằm trong phạm vi nghiên cứu của tôi. Nhưng vì kinh Dịch có nói: ”Không phải ta hỏi đứa bé mà đứa bé hỏi ta”, cho nên tôi không thể không chìu lòng. Tôi sửa chữa những chỗ sai, bổ túc những nơi thiếu sót. Trong vòng mười lăm hôm, bộ lục này lấy lại được văn thể nghĩa lý ngày xưa, như là mặt trăng thêm sáng. Vị tăng lại còn nhờ tôi viết một bài tựa khắc thêm vào đầu sách để làm sáng cho lời Phật dạy. Tôi không tiếc công, liền gọi người nhà mang giấy bút tới và viết những dòng thô sơ này.
Vị tăng liền cám ơn và nhận lấy.
Dưới bài tựa có câu: “Trùng khắc vào một ngày tháng 4 năm Vĩnh Thịnh thứ 11, triều Lê” (năm 1715).
Qua sự hiệu đính của ông đồ này, có thể sách bị sửa chữa làm cho sai lầm vì sự thiếu hiểu biết về thiền học của ông đồ.
Năm 1722, Thiền sư Như Trí tịch ở chùa Thiên Tâm (Bắc Ninh), đời vua Lê Dụ Tông, thời chúa Trịnh Cương.
Thiền sư Như Trí có các đệ tử: Tánh Nhu, Tánh Quán, Tánh Trung, Tánh Huy, Tánh Kiến, Tánh Bản...

---o0o---

Phát Hiện Kim Thân Thiền Sư Như Trí (? - 1722) Trong Tháp Ở Chùa Tiêu (Chùa Thiên Tâm), Tỉnh Bắc Ninh
Năm 2004, chùa Tiêu hay chùa Thiên Tâm trên núi Tiêu Sơn, tỉnh Bắc Ninh đã phát hiện “nhục thân” (kim thân) của Thiền sư Như Trí (? - 1722) trong tháp ở khuôn viên chùa.
Thiền sư Như Trí viên tịch năm 1722 tại chùa Tiêu, nhưng đến khi phát hiện vào năm 2004, nhục thân của Sư vẫn còn gần như nguyên vẹn trong tư thế tọa thiền, nhưng bị hư hỏng vài nơi: trên mặt bị thủng một lỗ ở sát sóng mũi, hai cánh tay bị gãy rời, chân phải bị bể một lỗ ở ống quyển, toàn thân có nấm mốc,...

Ông sư chùa Tiêu và chuyện lạ về 'tượng xác' 300 năm không phân hủy ở Bắc Ninh

Tượng của Thiền sư Như Trí đã được phục chế

Thiền sư Như Trí viên tịch vào năm 1722, cách nay gần 300 năm, nhưng kim thân vẫn còn nguyên trong tư thế tọa thiền (ngồi thiền); ở chùa Đậu hay chùa Pháp Vũ tại tỉnh Hà Tây cũng còn kim thân của hai Thiền sư: Đạo Chân (Vũ Khắc Minh) và Đạo Tâm (Vũ Khắc Trường) cũng viên tịch cùng thời đó (thế kỷ 18).
Ngoài ra ở chùa Phật Tích tại tỉnh Bắc Ninh, Hòa thượng Chuyết Công (hay Thiền sư Viên Văn - Chuyết Chuyết) viên tịch vào thế kỷ 17, kim thân của Hòa thượng cũng được phát hiện vào năm 1990 trong tháp ở chùa này; ở chùa Bút Tháp có tháp Vọng thờ Hòa thượng Chuyết Công, được gọi là tháp Báo Nghiêm.

---o0o---

Tiêu Sơn Tự Và Sự Ngộ Nhận Tông Phái Về Như Trí Thiền Sư
Phạm Tuấn (Viện Hán Nôm)

Chùa Tiêu Sơn nằm trên ngọn núi cao thõng mình xuống dòng Tiêu Tương hiền hoà. Ngày nay, dòng sông Tiêu không còn nữa, người ta ngăn dòng chảy lại tại để thành các ao hồ thả sen và cấy lúa.
Tham quan chùa Tiêu không thể không ngắm nhìn những tháp cổ uy nghi và lịch sử ngàn xưa của văn hoá vùng Kinh bắc mà hằng thường trong tâm thức người Việt hàng nghìn năm nay.
Chúng tôi thăm tháp, ngẫm về hình tích truyền tông kế phái của ngôi chùa, nhưng đến nay chẳng còn gì, di sản để lại ngàn xưa tại của di tích có lẽ còn bí mật trong những ngôi tháp cổ và huyền tích lịch sử thời Lý về nay trên mảnh đất thiêng liêng.
Di sản Hán nôm của chùa chỉ còn lại một tấm bia đá “Lý gia linh thạch” và những câu đối hoành phi còn mới mầu sơn thời gian. Truy nguyên trầm tích cho văn hoá lịch sử ngôi chùa quả là điều bất khả, nhưng một vài điểm xuyết cho tông phái và truyền thừa cũng như gắn bó với những phát hiện nơi Nhục thần Bồ tát nơi tháp cổ Viên Huệ Như Trí thiền sư cũng không phải là điều khó khăn trong nghiên cứu thư tịch truyền thống mà vẫn còn những ngộ nhận bất cập cho mảnh đất Tiêu sơn.
Tấm bia đá mới dựng bằng chữ Quốc ngữ bên tháp Viên Huệ năm 2004 bởi tổ đình Long Động Yên tử kỉ niệm về việc khai mở phục chế nhục thân thiền sư Như Trí đóng cửa lại cho những nghiên cứu tìm tòi về lịch sử ngôi chùa và tháp thờ tự nơi đây.
Tuy nhiên tấm bia có một số thông tin không đúng sự thật, cũng như dẫn theo các bài giới thiệu về Thiền sư Như Trí với chùa Tiêu Sơn trên khắp các mạng Internet hoặc tạp chí Nghiên cứu Phật học số 3 – 2008 đều ghi chép Thiền sư Như Trí thuộc dòng thiền Lâm Tế, nối tổ Chân Nguyên.
Hay chính xác hơn là Như Trí là vị sư tu theo pháp môn thiền Trúc Lâm Yên Tử. Việc bia tháp nêu nội dung như trên là hết sức sai lầm, bởi thiền sư Như Trí không hề thuộc tông Lâm Tế mà thuộc tông Tào Động và truyền phái từ chính tông Tào Động về trụ trì tại ngôi chùa này. Hiện nay vẫn còn một số tài liệu Hán Nôm ghi rõ tông phái của vị thiền sư này.
Trước tiên nói về Phật giáo nước nhà vẫn tồn tại hai tông cơ bản là Lâm Tế và Tào Động. Truyền tông lập phái ở chùa Tiêu Sơn gắn với huyền sử về Vạn Hạnh thiền sư và việc dựng đô thời Lý, nhưng thư tịch không để lại gì để xác lập cụ thể tông phái, mà chỉ nằm trong mối giao thoa tông giáo chính trị Lý Trần.
Hoặc chăng, điều kiện thời đại lịch sử cũng như yếu tố tự thân của chùa chiền Việt Nam nói chung đã không bảo lưu được tông phái trọn vẹn. Đồng thời tính ỷ lại và phương pháp nghiên cứu còn nhiều bất cập dẫn đến thường ngày các nhà nghiên cứu chúi đầu vào các bộ sách Việt Nam Phật giáo sử lược của Thượng toạ Mật Thể và Việt Nam Phật giáo Sử luận của Nguyễn Lang mà hậu thân của nó là tác phẩm Thiền Sư Việt Nam của Hoà thượng Thanh Từ và vô vàn bài luận Phật giáo mà không hề có chuyện nghiên cứu trên đa dạng phương thức Động bằng đi thực tế và Tĩnh bằng cách ngồi lì trên các thư viện đọc sách hoặc các chùa chiền nghe kể truyền tông kế phái.
Tất cả cho thấy sự thiếu hụt trong nghiên cứu văn hoá Phật giáo Việt Nam nói chung của người Việt không chỉ trong truyền thống mà đến tận ngày nay.
Về tấm bia dựng bên tháp Viên Huệ viết bằng chữ quốc ngữ dựng năm 2004 bởi Thiền Phái Trúc Lâm với tiêu đề ghi “Tháp Viên Tuệ thờ nhục thân Thiền sư Thích Như Trí”. Nội dung tấm bia cho biết: “Sư sống vào khoảng cuối thế kỉ 17 qua đầu thế kỉ 18, từng trụ trì tại chùa Tiêu, có thể là đệ tử nối pháp của Thiền sư Chân Nguyên trụ trì chùa Long Động ở Yên Tử theo dòng kệ truyền pháp: “minh chân như tính hải, kim tường phổ chiếu thông, chí đạo thành chính quả, giác ngộ chứng chân không”. Tiếp nối tinh thần phục hưng Thiền phái Trúc Lâm của Thiền sư Chân Nguyên…”.
Từ tấm bia đặt ra vấn đề tông phái cũng như truyền thừa chùa Thiên Tâm liệu có đúng là truyền từ Chân Nguyên không, cũng như tông phái chùa chiền miến bắc nói chung?
Về vấn đề tên tháp mà các nhà khảo cổ tìm thấy trong mộ tháp hiện chúng tôi vẫn chưa nhìn thấy bản chụp cũng như bản gốc nên không rõ chữ Hán là gì, nhưng các bài giới thiệu đều phiên là Viên Tuệ.
Đành rằng âm đọc giống nhau, nhưng chữ Hán có khi khác, hoặc chăng tương thông nghĩa. Trước điều kiện đó, chúng tôi căn cứ vào Khoa cúng tổ chùa Thiên Tâm và phiên tên hiệu tháp của ngài là Viên Huệ tháp 圆惠塔. Trong bài viết này chúng tôi dùng từ Viên Huệ tháp.
Từ các vấn đề đặt ra cho truyền tông phái chùa Thiên Tâm núi Tiêu Sơn chúng tôi đưa ra các biện minh dưới đây:
Từ bài kệ bia tháp đến Lâm Tế tông phái thế kỉ 17 – 18 ở miền Bắc.
Về bài kệ truyền thừa tông phái mà tấm bia bên tháp ghi cho là truyền từ Chân Nguyên Thiền sư là không hoàn toàn chính xác cho chính truyền thừa dòng Lâm Tế ở Đại Việt trong giai đoạn thế kỉ 17 đến nay. Bài kệ này được tâm bia đá tại tháp Viên Huệ Như Trí thiền sư năm 2004 ghi là:
‘’Minh chân như tính hải
Kim tường phổ chiếu thông
Chí đạo thành chính quả,
Giác ngộ chứng chân không”.
Bài kệ này từ khi ra đời mà chúng tôi không rõ tài liệu nào ghi chép đầu tiên về bài kệ này và cho là của Minh Hành thiền sư (chứ không phải Chân Nguyên) được Thượng Toạ Mật Thể đưa vào trong Việt Nam Phật Giáo Sử Lược đã không được phát triển theo mạch truyền tông nối tổ đúng chức năng kệ truyền phái của nó. Trong khi đó mạch truyền Lâm Tế Đại Việt vẫn đi theo bài kệ truyền từ trước của Trí Bản Đột Không là:
智慧清淨
道德圓明
真如性海
寂照普通
Trí tuệ thanh tịnh
Đạo đức viên minh
Chân như tính hải
Tịch chiếu phổ thông”.
Về truyền thừa theo bài kệ này, kể cả phái xuất từ dòng Long Động – Quỳnh Lâm đều tuân theo mà truyền tông nối phái. Đơn cử cho mạch nối này còn được các kinh sách ghi chép lại như Kế đăng lục của Như Sơn, Thiền Uyển Truyền Đăng Lục của Phúc Điền, bia chí truyền thừa chùa Quỳnh Lâm, chùa Long Động Yên Tử, chùa Bảo Quang, Chùa Hàm Long, chùa Bút Tháp, chùa Phật Tích ở Bắc Ninh.
Chúng tôi đơn cử bia Kết Liên hoa tuyển Phật đồ chùa Bảo Quang Bụt Mọc huyện Quế Võ tỉnh Bắc Ninh viết rằng:
‘’… Chuyết Chuyết truyền thụ cho Minh Lương. Minh Lương truyền thụ cho Chân Nguyên. Chân Nguyên Tuệ Đăng Hoà thượng truyền thụ cho Như Thích Thiền sư, là khai sơn thuỷ tổ của chùa (Bụt Mọc). Môn nhân đệ tử Như Bảo tháp Sa di Tính Chất. Chùa Tịnh Minh Tính Tân, Chùa Ngô Xá Sa di Tính Như, Tháp Tịnh Trĩ Tỳ khưu Tính Hoàn, Tháp Kim Cương Tỳ khưu Tính Tín - đốt 1 ngón tay, Am Lan Nhã – sa di Tính Hiệu, Tháp Báo Đức sa di Tính Thân, Tính Thường, Tính Ý, Cháu dòng Thích ở tháp Bồ Đề thuộc chùa Bảo Quang là Tỳ khưu Hải Lượng Thích Tinh Tinh, Đệ tử Tỳ khưu Tịch Khâm Thích Thân Thân, Tỳ khưu Tịch Hy Thích Hoa Hoa, Sa di Tịch Khê, Tịch Hạnh, Tịch Phẩm, Tịch Triết, Đời cháu dòng Thích hệ thứ là Chiếu Nhượng, Chiếu Bản, Chiếu Thiểu, Chiếu Thiện, Chùa Viên Giác - Tỳ khưu Hải Thuần Thích Hiệu Hiệu, Đệ tử Tịch Miễn, Tịch Trang, Tịch Vọng, Tịch Quảng, Tịch Hải….”.
Bia dựng ngày lành tháng tốt năm Lê Cảnh Hưng thứ 24 (1763) và được lưu thác bản tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm số 22161. Thông qua văn bia cho thấy truyền thừa tông phát Lâm tế từ Viên Văn Chuyết Chuyết đến hàng đệ tử con cháu về sau đúng theo bài kệ của Trí Bản Đột Không, tức từ hàng chữ Tính chữ Hải truyền xuống chữ Tịch chữ Chiếu chứ không phải theo bài kệ của Minh Hành là xuống chữ Kim, Tường.
Đồng thời, Chân Nguyên – vị tổ kế tông quảng phái Trúc Lâm ở chùa Long Động và Quỳnh Lâm mà nay tháp thờ ngài còn ở 2 chùa đã chép lại bài kệ tông Lâm Tế của Trí Bản Đột Không cũng như truyền tông kế phái ghi chép rõ ràng trong chính tác phẩm Kiến Tính Thành Phật của ông chứ không phải bài truyền phái của Minh Hành.
Tất cả cho thấy vấn đề của tông phái Lâm Tế miền Bắc thế kỉ 17 – 18 là truyền tông lập phái theo bài kệ của Trí Bản Đột Không từ thời cuối Minh Trung Quốc. Cũng như, chúng tôi ngạc nhiên về việc Thiền phái Trúc Lâm ở chùa Long Động - Yên tử ngày nay lại không hề biết về truyền thừa tông phái của chính chùa Long Động - Yên Tử từ trước theo bài kệ nào?
Trong khi, chùa Long Động - Yên Tử còn lưu giữ khá tốt hệ thống bia chí truyền tông phái thông qua các tháp tổ. Mặc nhiên, qua nghiên cứu cho thấy chính chùa Long Động - Yên Tử cũng truyền thừa theo bài kệ của Trí Bản Đột Không.

Tông phái của Như Trí Thiền sư
Thiền sư Như Trí không phải là thiền sư phái Lâm Tế. Căn cứ theo khoa Cúng tổ của chùa Thiên Tâm cũng như tổ đình chùa Hồng Phúc thì Thiền sư Như Trí kế đăng theo tông Tào Động.
Sự ngộ nhận thành tông Lâm Tế của Thiền Phái Trúc Lâm chùa Long Động Yên Tử qua tấm bia và các bài viết liên quan đến khôi phục nhục thân cho thiền sư dẫn đến các tài liệu gần đây viết về chùa Tiêu hoặc thiền sư Như Trí đều mặc nhiên ghi Thiền sư thuộc tông Lâm Tế mà không cho một minh chứng xác thực.
Từ cái sai của một nhận định, dẫn đến cả một giai đoạn mấy năm nay, giới nghiên cứu học thuật tông giáo nói chung ngộ nhận tông phái chùa Thiên Tâm núi Tiêu sơn. Cụ thể sự tiếp nối tông phái theo Tiêu Sơn cúng tổ khoa như sau:

Khoa cúng liệt kê chư tổ của chùa từ tổ Vạnh Hạnh, tổ Thuỷ Nguyệt Thông Giác, tổ Chân Dung Thông Diễn, tổ Tuệ Sơn tháp sắc tứ Chân Tâm Hải Thuần, tổ Tịnh Giác Hoà thượng Từ Sơn Hành Nhất, tổ Bản Lai Hoà thượng Tính Chúc Đạo Chu, tổ Phổ Quang tháp Chính Tín Hoà thượng Hải Anh Nghiễm Nghiễm Viên Minh, tổ Chân Như tháp Hoà thượng tự là Tịch Khẩn Thích Cẩn Cẩn, tổ Thường Chiếu tháp Hoà thượng Hải Điện Mật Đa, tổ Tịnh Quang tháp sắc tứ Đạo Nguyên hoà thượng Thanh Lãng Khoan Dực Phổ Chiếu, Viên Quang tháp khâm ban Tịch Lâm Thích Sâm Sâm Vô Trước, tổ Nam mô Viên Huệ tháp Hoà Thượng Như Trí thiền sư Hoá thân Bồ tát (tờ 13a), tổ Mam mô Viên Dung tháp Hoà thượng Tính Hải thiền sư hoá thân bồ tát, tổ Nam vô Chân Hậu tháp Hoà thượng Hải Trinh.
Tiêu Sơn Thiên tâm cúng tổ khoa, kí hiệu AC. 2025, lưu tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, sách do Hoà thượng Tịnh Từ viết lại năm Tự Đức thứ 3 (1850). Như vậy, theo khoa cúng của chính chùa Thiên Tâm thì Thiền sư Như Trí thuộc tông Tào Động mà cụ thể là kế tông phái từ tổ đình Hồng Phúc Hoè Nhai.
Đồng thời theo Thiền Uyển Truyền Đăng Lục quyển hạ tờ 23a được soạn bởi Phúc Điền hoà thượng về truyền thừa chùa Thiên Tâm như sau: “Khai sơn thuỷ tổ chùa Thiên Tâm núi Tiêu ở Yên Phong Bắc Ninh là Vạn Hạnh tổ sư. Truyền xuống đời thứ 2 là Như Trí. Truyền xuống đời thứ 3 là Tính Dũng đại sư. Truyền xuống đời thứ 4 là Hải Trinh đại sư. Truyền xuống đời thứ 5 là Đồng Giáo Cánh Chủ Tịch Lâm tổ sư. Truyền xuống đời thứ 6 là Tịch Quang Chiếu Trí đại sư. Truyền xuống đời thứ 7 là Phổ Thuận Đại sư. Truyền xuống đời thứ 8 là Thông Tuệ Đại sư”.
So sánh 2 văn bản Cúng tổ và Thiền Uyển Truyền Đăng Lục cho thấy Như Trí là đệ nhất tổ dòng Tào Động vào thế kỉ 17 – 18 ở chùa Tiêu Sơn. Đồng thời khẳng định, Thiền sư Như Trí không thuộc tông Lâm Tế. Tông phái có thể giao thoa, nhưng truyền tông lập tổ trong chùa chiền đến nay vẫn bảo nguyên truyền thống tông phái khu biệt. Lâm Tế tông và Tào Động tông vẫn là 2 tông phái chính phát triển đến tận ngày nay ở Việt Nam.
Cũng như các tài liệu tìm được đến nay không rõ năm mất của thiền sư mà chỉ biết năm thị tịch thông qua tấm bia bài vị trong tháp nhục thân ghi là tịch năm 1723 đời Lê Dụ Tông.
Đến nay miền Bắc vẫn tồn tại song song hai tông Thiền là Lâm Tế và Tào Động, biện minh cho rõ ràng đôi khi là việc bất lực bởi sự giao thoa, nhưng những kiến giải phải được đọc trên đa chiều thông tin và sự minh xác của lịch sử vẫn là việc có thể.
Bài viết của chúng tôi khẳng định: Như Trí thiền sư là vị sư tu theo tông Tào Động ở miền Bắc trong giai kì cuối thế kỉ 17 đầu thế kỉ 18. Đồng thời, khẳng định tiếp biến trong nghiên cứu đòi hỏi sự chứng thực và sự hiểu biết rõ ràng để các vấn đề được sáng tỏ hơn trong giới thiệu rộng rãi, tránh nhầm lẫn đáng tiếc cho thế hệ sau từ tăng chúng Chân đế đến Tục để muôn phương, phỏng cổ tham quan cũng được hiểu rõ tông phái kế truyền và bản lai chân thật của lịch sử tượng tháp.
Phạm Tuấn (Viện Hán Nôm)
Tài liệu tham khảo:
1. Tiêu sơn cúng tổ khoa, kí hiệu. A. 2025, Thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm.
2. Cúng tổ khoa chùa Hoè Nhai, chùa Ngọc Quán - Hà Nội tàng bản.
3. Tạp chí Nghiên cứu Phật học số kỉ niệm Phật đản tháng 5/ 2008
4. Kết liên hoa tuyển Phật đồ, bia chùa Bảo Quang, xã Nam Sơn huyện Quế Võ tỉnh Bắc Ninh, thác bản tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm số: 22161.
5. Sự thực tông Lâm tế Đại Việt, tạp chí nghiên cứu Phật học, số 2 năm 2008.
6. Thiền Uyển Truyền Đăng Lục, quyển hạ, bản lưu Ngọc Quán Thiền viện.
7. Việt Nam phật giáo sử luận –Nguyễn Lang, nxb Văn Học, HN, 2000.
8. Việt Nam Phật giáo sử lược, Mật Thể, Minh Đức tái bản, Sài gòn, 1967.
(Theo vietimes.com.vn)
CHÙA THIÊN TÂM (CHÙA TIÊU)
http://www.thuvienhoasen.org/cvn-habac-thientam.htm
http://www.thuvienhoasen.org/cvn-chuatieuson.htm
09-16-2008 12:23:46

---o0o---

Tông phái Thiền Sư Như Trí
Ngô Quốc Trưởng

Thiền sư Như Trí (?-1722) sống vào thời Lê Trung Hưng, từng trụ trì chùa Tiêu. Công nghiệp để lại của thiền sư cho hậu thế rất lớn, là người trùng san văn bản  Thiền uyển tập anh vào năm Vĩnh Thịnh thứ 11, bảo tồn một tư liệu quí về lịch sử Phật giáo nước nhà. Không những thế, khi viên tịch, thiền sư đã để lại nhục thân được an tàng trong tháp Viên Tuệ. Đây là một trong bốn nhục thân còn lại tại nước ta. Do đó, không ít các nhà nghiên cứu đã cho sưu tầm tư liệu về vị thiền sư này.
Thực ra, khi cho tìm hiểu hành trạng thiền sư Như Trí, các nhà nghiên cứu vấp phải một sự cản trở lớn. Đó là nguồn tư liệu nào ghi lại hành trạng thiền sư. Sưu tầm các tư liệu Hán Nôm còn lại không cho ta một bản tiểu sử rõ ràng. Đâu đó chỉ còn lại được một vài nét chấm phá. Đúng là:
“Nhạn quá trường không,
Ảnh trầm hàn thủy.
Nhạn vô di tích chi ý,
Thủy vô lưu ảnh chi tâm”.
Trong khi đó, một số suy luận về tông phái của thiền sư được nêu ra và có nhiều mâu thuẫn. Mâu thuẫn do mỗi nhà nghiên cứu đưa lại, thiền sư Như Trí thuộc về dòng thiền nào? Trúc Lâm, Lâm Tế hay Tào Động, đó là ý hướng mà chúng tôi quan tâm. Sau đây là những cứ liệu mà các học giả đi trước công bố.
Năm 1978, Nguyễn Lang trong công trình Việt Nam Phật Giáo sử luận II đã cho rằng: “Thiền sư Như Trí có thể là pháp tử của thiền sư Chân Nguyên, nếu không thì cũng là pháp điệt của thiền sư này” [3, tr. 112] Có thể tác giả chưa dám chắc kết luận của mình. Trong công trình Bí mật phía sau nhục thân của các thiền sư của Nguyễn Lân Cường mới công bố gần đây cũng kế thừa ý kiến của học giả Nguyễn Lang.
Lê Mạnh Thát thì cho thiền sư Như Trí thuộc dòng thiền Minh Châu Hương Hải. Tác giả sử dụng bản in Thiền Uyển tập anh cùng một số văn bia liên quan để suy luận như sau: “Từ đó, dù Như Trí không thấy được ghi vào trong Hương Hải thiền sư ngữ lục, ta vẫn có thể chắc chắn Như Trí thuộc dòng thiền này”. Ý kiến của tác giả dựa trên danh sách học trò của thiền sư Như Trí trong bản in Thiền uyển tập anh đối chiếu với Hương Hải thiền sư ngữ lục để qui kết tông phái của thiền sư. Đây là ý kiến thứ hai, có phần khác so với Nguyễn Lang.
Phạm Tuấn dựa vào Tiêu Sơn Thiên Tâm cúng tổ khoa cùng một số tư liệu khác cho rằng thiền sư Như Trí thuộc tông Tào Động. Bởi phần cung tiến trong đường thỉnh có ghi lại một số vị thiền sư phái Tào Động. Đây là một ý kiến mới mẻ, có phần suy luận khác xa với hai ý kiến trên. Cách đưa ra tông phái đối lập hoàn toàn với các học giả trước đây.
Qua nguồn được trích dẫn trên, chúng tôi thấy mỗi người mỗi ý, chưa ai đưa ra một cách thuyết phục. Nếu như Phạm Tuấn cho thiền sự Như Trí thuộc tông Tào Động miền Bắc thì pháp húy của thiền sư có hợp với bài kệ truyền thừa dòng Tào Động không? Không lẽ, thiền sư này có pháp húy nào khác chăng? Điều này chúng tôi sẽ làm sáng tỏ ở phần dưới.
Theo như chúng ta được biết, thiền sư Như Trí đã trùng san Thiền Uyển Tập Anh vào năm Vĩnh Thịnh 11 (1715) và được in lại sau đó không lâu mà Lê Mạnh Thát đặt tên là bản Lê II. Văn bản này cung cấp cho chúng ta phần môn đồ của thiền sư mà không đưa ra thông tin gì về hành trạng của ngài. Sách đề “Thiền tông thác tích Thích tử Như Trí” [2, tr. 907].

Kinh Đại Niết Bàn in vào năm Đồng Khánh 1 (1886), có ghi lại lạc khoản sau: “Thích Tử Chính Tín Hòa Thượng Chân Từ, Tuệ Đăng Hòa Thượng Chân Nguyên cẩn tự. Phụng giám Thích Tử Tự Như Trí, tự Như Giới, Tự Như Xuân” và đi với năm in là Chính Hòa 15 (1694). Viết như thế thì người cho in lại đã rất cẩn thận trong việc xử lí văn bản. Thông tin cho chúng ta biết được thiền sư Như Trí đã từng giám sát công trình và thiền sư có quan hệ với ngài Chân Nguyên Tuệ Đăng. Liệu họ có phải là thầy trò chăng?
Theo văn bia Tâm Hoa Tháp ghi lại tiểu sử thiền sư Như Chúc (如燭禪師) cho biết: “Hốt văn Tiêu Sơn Thiên Tâm tự trụ trì lão tăng pháp danh Như Trí hóa bỉ thịnh hành. Cố lai lễ bái, khất vi đệ tử. Lão tăng nhất kiến hứa chi. Nãi chúc phát qui giới nhi y chỉ đắc sở dã, chấp lao phục dịch đắc ngũ niên gian, chí Bảo Thái tam niên thời Thiên Tâm bản sư dĩ  tây qui viên tịch hĩ”. (忽聞蕉山天心寺住持老僧法名如智化彼盛行故來禮拜乞為弟子老僧一見許之乃祝髮皈戒而依止得所也執勞服役得五年間至保泰三年時天心本師以西歸圓寂矣) [5, tr. 889]. Tạm dịch: Bỗng nghe lão tăng pháp danh Như Trí trụ trì chùa Thiên Tâm, núi Tiêu giáo hóa thịnh hành. Vì thế, sư đến lễ bái, xin làm đệ tử. Lão tăng vừa thấy nhận lời ngay. Bèn cạo tóc, qui y thụ giới mà có chỗ nương tựa. Chấp lao phục dịch được 5 năm, đến năm Bảo Thái thứ 3, thời bản sư Thiên Tâm (Như Trí, tác giả chú) viên tịch.
Như thế, thiền sư Như Chúc đã từng đến xin xuất gia với thiền sư Như Trí tại chùa Thiên Tâm (còn gọi là chùa Tiêu). Lúc này, thiền sư đã lớn tuổi mà văn bia gọi thiền sư Như Trí là “Lão Tăng”. Thiền sư Như Chúc đã từng theo thiền sư Như Trí học đạo được 5 năm. Đến năm Bảo Thái 3 (1722), thiền sư Như Trí viên tịch. Như thế suy ra năm xuất gia của Như Chúc là năm 1717. Do đó mà chúng ta không thấy tên thiền sư Như Chúc ghi trong lần trùng san sách Thiền Uyển Tập Anh. Qua văn bia, chúng ta biết được năm mất của thiền sư Như Trí là năm Bảo Thái thứ 3 (1722). Điều này lại hợp lí khi phát hiện viên gạch nung có khắc chữ triện lớn, đề là “Viên Tuệ Tháp”. Lạc khoản bên trái đề: “Ma ha đại Tỳ kheo Như Trí nhục thân Bồ tát. Tự pháp tỳ kheo Tính… đạo…”. Lạc khoản bên phải đề: “Lê triều Bảo Thái tứ niên, tuế tại Quí mão xuân cốc nhật cẩn tạo, mạnh hạ sóc đán cố tháp”.
Phía trước tháp Viên Tuệ có một ngôi tháp xây bằng gạch, không để cửa, bốn mặt khép kín, trên đầu tháp có một bia đá đề Viên Dung tháp rất lớn. Chúng tôi cho dập thì phát hiện xung quanh có ghi hàng chữ nhỏ. Chúng tôi nhận thấy cách ghi và lối phân bố các lạc khoản trong viên gạch tháp Viên Tuệ và tấm đá tháp Viên Dung có sự giống nhau. Chúng tôi mô tả hàng chữ trên tấm đá tháp Viên Dung như sau, bên trên đề “Thập nhị nguyệt, nhị thập ngũ nhật tý thời sinh. Cửu nguyệt thập thất nhật dậu thời viên tịch húy kị” nghĩa là sinh giờ Tý ngày 25 tháng 12, giờ dậu, ngày 17 tháng 9 viên tịch, húy kị. Lạc khoản bên trái đề: “Trúc Lâm thiền tịnh tỳ-kheo Tính Hải hiển giác thiền sư hóa thân Bồ tát. Tự pháp đệ tử Hải Lãng đạo tràng đẳng”, bên phải đề: “Lê triều Cảnh Hưng ngũ niên tuế tại Giáp Tý, đông tiết cốc nhật kiến tạo bảo tháp báo ân, cẩn thức”.
Chúng tôi nêu ra một phương pháp là cho nhập hai lạc khoản lại với nhau và chúng ta nhận thấy câu văn trở nên mạch lạc, dễ hiểu. Như thế phải dịch là Trúc Lâm thiền tịnh tỳ-kheo Tính Hải Hiển Giác thiền sư hóa thân Bồ tát. Tự pháp đệ tử Hải Lãng cùng đạo tràng lập bảo tháp ngày lành tiết đông năm Giáp Tý (1744), niên hiệu Cảnh Hưng thứ 5 triều Lê để báo ơn, cẩn thức. Trong viên gạch nung tháp Viên Tuệ có mất mấy chữ, chúng tôi áp dụng vào văn bia tháp Viên Dung đoán định được một chữ, sau chữ Đạo là chữ Tràng. Điều này thấy hợp lí. Do đó, chúng tôi dịch như sau: “Ma ha đại Tỳ-kheo Như Trí nhục thân Bồ tát. Tự pháp tỳ kheo Tính… cùng đạo tràng kính tạo ngày lành mùa xuân năm Quí mão, niên hiệu Bảo Thái thứ 4 triều Lê, ngày vọng mùa hạ hoàn thành ngôi tháp”. Như thế, sau khi thiền sư Như Trí viên tịch năm 1722, thì năm 1723 môn đồ cho dựng tháp.
Theo Tiêu Sơn Thiên Tâm tự cúng tổ khoa cho biết sau thiền sư Như Trí là thiền sư Tính Hải, do đó họ là hai thầy trò với nhau là điều chắc chắn. Điều đó lại cho chúng ta một thông tin không kém là trong bia Viên Dung, thiền sư Tính Hải lấy hiệu là Trúc Lâm Thiện Tịnh. Cách này được hiểu là ngài thuộc dòng thiền Trúc Lâm. Nhưng ở đó chưa đủ, chúng ta biết vào thời Hậu Lê, các thiền sư phái Lâm Tế sau khi về kế đăng Yên Tử đã hòa nhập dòng phái mình với dòng Trúc Lâm mà cuối sách Tam Tổ Thực Lục gọi là Trúc Lâm Lâm Tế. Điều này, chúng ta thấy thiền sư Chân Nguyên cũng thường xưng mình là thuộc dòng phái Trúc Lâm, ngài tự xưng là Trúc Lâm Tuệ Đăng hòa thượng Chân Nguyên. Như thế, Tính Hải phải là vị sư có nguồn gốc phát xuất như trên, do đó, thiền sư Như Trí cũng nằm trong dòng phái trên mà có nhiều học giả cho ngài là đệ tử của thiền sư Chân Nguyên. Điều này, chúng tôi sẽ chứng minh ở phần dưới đây.
Theo văn bia Tâm Hoa tháp cho biết sau khi thiền sư Như Trí viên tịch, thiền sư Như Chúc đến cầu học với thiền sư Chân Nguyên. Lúc Như Chúc đến Long Động thì Chân Nguyên đã lớn tuổi, sắp viên tịch. Thông qua văn bia, chúng ta thấy được mối quan hệ giữa Như Chúc, Như Trí và Chân Nguyên.
Một tư liệu quan trọng xác định rõ tông phái của thiền sư Như Trí là văn bia Thừa Bình Tháp Ký tại chùa Dâu. Văn bia ghi lại hành trạng thiền sư Hải Mộ, còn gọi là Tính Mộ mà các tư liệu khác đề cập. Trong văn bia có câu: “Thật Đức Long nhị niên Nhâm tý nãi qui tông thụ giáo bản sư ư Nhạn Tháp Ninh Phúc tự. Bản sư chính Ba Tiêu Thiên Tâm chi pháp tử, Trúc lâm Long Động chi pháp tôn, hệ Đông Đô thủy tổ chi chính mạch dã.”
寔龍德元年壬子乃皈宗受教本師於雁塔寧福禪寺本師正芭蕉天心之法子竹林龍洞之法孫系東都始祖之正脈也.
Tạm dịch: Năm Long Đức 1, Nhâm Tý [1732], ngài qui tông thụ giáo bản sư ở chùa Ninh Phúc, Nhạn Tháp. Bản sư chính là pháp tử của chùa Thiên Tâm, Ba Tiêu, là pháp tôn của Trúc Lâm Long Động thuộc hệ chính mạch Đông đô Thủy tổ.
Bắt đầu chúng ta lí giải từng phần. Trước hết là Đông Đô thủy tổ tức chỉ cho hòa thượng Chuyết Công Viên Văn. Theo văn bia Kết Liên hoa tuyển Phật đồ cho biết: “Năm Phúc Thái Giáp Dần(1674), Thánh thiên tử Thần tông Uyên hoàng đế sắc tứ thụy Đông Đô thủy tổ, đặc phong Minh Việt quảng tế đại đức thiền sư nhục thân Bồ-tát. Hòa thượng Chuyết Chuyết truyền thụ lời phú chúc của Trạng nguyên tăng Đức Quan Đà Đà hòa thượng. Hòa thượng Chuyết Chuyết truyền cho Minh Lương. Minh Lương truyền cho hòa thượng Chân Nguyên Tuệ Đăng…”
Hệ chính mạch Đông Đô chỉ cho hệ chính do thiền sư Chuyết Công, một tăng nhân Trung Quốc, thuộc tông Lâm Tế sáng lập tại Đại Việt. Theo hệ thống văn bia và thư tịch tại chùa Bút Tháp cho hay, vào năm 1633, thiền sư Chuyết Chuyết từ Đàng Trong ra Đông Đô hoang hóa. Từ đó, dòng thiền do ngài kế đăng phát triển ra các trấn, nhiều thiền sư đã thụ giáo với ngài hành hóa khắp nơi, phát triển mạnh và có sự truyền thừa sâu rộng. Văn bia cho biết thiền sư Hải Mộ qui tông thụ giáo với bản sư ở chùa Ninh Phúc, Nhạn Tháp vào năm Long Đức Nhâm Tý (1732). Theo văn bia Tâm Hoa tháp cho biết đạo tràng Ninh Phúc trong giai đoạn đó dưới sự chủ trì của thiền sư Như Chúc (1691-1736). Đối chiếu các nguồn tư liệu dẫn trên, suy ra thiền sư Hải Mộ chính là học đồ của thiền sư Như Chúc. Điều này hợp lí khi chúng ta biết thiền sư Như Chúc là vị đệ tử của thiền sư Như Trí, chùa Tiêu. Văn bia Thừa Bình tháp ký cũng ghi lại: “Bản sư chính là pháp tử của chùa Thiên Tâm, Ba Tiêu”. Không chỉ thế, văn bia viết tiếp: “là pháp tôn của Trúc Lâm Long Động”. Trúc Lâm Long Động đây không ai khác chỉ về thiền sư Chân Nguyên Tuệ Đăng mà các tư liệu khác ghi lại. Nối kết từ các vế trên suy ra thiền sư Hải Mộ chính là học trò của thiền sư Như Chúc, Thiền sư Như Chúc lại là đệ tử của thiền sư Như Trí, chùa Tiêu, mà thiền sư Như Chúc là pháp tôn của Trúc Lâm Long Động thì suy ra thiền sư Như Trí chính là đệ tử của thiền sư Chân Nguyên. Đây là một cách ghi lại hệ truyền thừa theo dòng chính mạch từ tổ Chuyết Công truyền xuống đến thiền sư Hải Mộ, chùa Dâu.
Theo Kiến tính thành Phật cho biết Thiền sư Chân Nguyên lúc đầu xuất gia với thiền sư Chân Trụ, chùa Hoa Yên. Sau sang học đạo với thiền sư Minh Lương, chùa Vĩnh Phúc-Phù Lãng. Thiền sư Minh Lương lại chính là vị đệ tử của hòa thượng Chuyết Công. “Đến triều Lê thịnh trị, hưng sùng đạo Phật, lại thấy Vân Thủy tỳ-kheo Chuyết Công hòa thượng Viên Văn tổ sư cùng từ nước Đại Minh mà đến Việt Quốc. Sư xưng là chính mạch pháp phái Lâm Tế thiền tông…” [9, 101b6-101b8]. Như thế, thiền sư Chuyết Công là môn nhân của phái Lâm Tế. Cũng theo tác phẩm này cho biết, thiền sư Chân Nguyên vẫn trung thành với việc đặt tên pháp theo bài kệ truyền thừa. Sách chép bài kệ truyền thừa như sau:
’’Trí tuệ thanh tịnh,
Đạo đức viên minh.
Chân như tính hải,
Tịch chiếu phổ thông.
Tâm nguyên quảng tục,
Bản giác xương long.
Năng nhân thánh quả,
Thường diễn khoan hoằng.
Duy truyền pháp ấn,
Chính ngộ hội dung.
Kiên trì giới hạnh,
Vĩnh thiệu tổ tông”.
[9, 103a8-103b4] Bài kệ truyền thừa này của thiền sư Đột Không Trí Bản, người Trung Quốc. Do đó, thiền sư Như Trí cũng truyền thụ theo bài kệ, chứ không phải ngài thuộc về thế hệ trong bài kệ truyền thừa của thiền sư Minh Hành mà các tư liệu Tiếng việt khác ghi lại. Điều này, chúng tôi đã công bố bài Về bài kệ truyền thừa của thiền sư Minh Hành Tại Tại [17] đã chứng minh hệ thống truyền thừa các sơn môn dòng Lâm Tế miền bắc không truyền thừa theo bài kệ được gán cho thiền sư Minh Hành. Do đó, thiền sư Như Trí chính là truyền nhân của dòng Lâm Tế. Nhân đây, chúng tôi đính chính sai lầm của Nguyễn Lân Cường, cùng văn bia tháp Viên Tuệ tại chùa Tiêu cho thiền sư Như Trí truyền thừa theo bài kệ thiền sư Minh Hành.
Phạm Tuấn cho thiền sư Như Trí thuộc dòng Tào Động là thiếu chính xác. Khoa cúng tổ chùa Tiêu ghi lại danh sách các thiền sư thuộc hai phái Lâm Tế, Tào Động. Bởi vì, Tiêu Sơn Thiên Tâm tự cúng tổ khoa chính là khoa cúng cho thiền sư Giác Trí. Tư liệu này cho biết Thiền sư Giác Trí “Lịch Lâm Tế quảng tham Tào Động” hay “Nhị phái kế đăng”. Như thế, thiền sư Giác Trí lúc đầu xuất gia với thiền sư Tịch Lâm, chùa Tiêu, sau sang tham học với tổ Đạo Nguyên Khoan Dực, chùa Đại Quang. Thiền sư Khoan Dực chính là tổ sư của dòng Tào Động mà sau này thiền sư Giác Trí kế đăng pháp phái. Thiền sư Giác Trí đóng vai trò không nhỏ trong việc phát triển thiền phái Tào Động tại Bắc Ninh. Từ Tiêu Sơn lan truyền về chùa Cao-Đại Tráng (Linh Sơn tự), chùa Do Nha phát mạch dẫn khắp, lan tỏa ra các vùng lân cận.
Theo Ngũ Gia Phân Phái cho biết thiền sư Thủy Nguyệt Thông Giác học đạo bên Trung Hoa, sau mang bài kệ truyền thừa dòng Tào Động hoằng thừa tại Việt Nam. Bài kệ này truyền được hai đời tại Trung Quốc, sau được chốn tổ Hòe Nhai kế thế truyền thừa cho đến thời hiện đại. Bài kệ như sau:
‘’Tịnh trí thông tông
Từ tính hải khoan
Giác đạo sinh quang
Chính tâm mật hạnh
Nhân đức di lương
Tuệ đăng phổ chiếu
Hoằng pháp vĩnh truyền”.
Thiền sư Giác Trí nằm ở chữ “Giác” trong bài kệ. Theo các nguồn tư liệu cho biết sau thiền sư Giác Trí là thiền sư Đạo Thuận, sau thiền sư Đạo Thuận là thiền sư Sinh Huệ. Cả ba thiền sư này đều trụ trì chùa Tiêu, riêng Đạo Thuận và Sinh Huệ lại kiêm trụ trì chùa Cao – Đại Tráng. Do đó mà trong khoa cúng tổ có truy tiến các vị tổ sư hai dòng Lâm Tế và Tào Động. Thông qua lí giải và cách hiểu như thế, chúng ta biết được Phạm Tuấn đã ngộ nhận tông phái đối với thiền sư Như Trí.
Nhân đây, chúng tôi nhận thấy Thiền Uyển Truyền Đăng Lục, quyển hạ ghi lại hệ thống truyền thừa chùa Tiêu theo dòng Lâm Tế như sau: “Khai sơn thủy tổ chùa Thiên Tâm, Yên Phong, Bắc Ninh là tổ sư Vạn Hạnh, triều Lý. Truyền xuống đời thứ 2 là đại sư Như Trí, đời thứ ba đại sư Tính Dũng (Tính Hải, Phúc Điền nhầm, tác giả chú), đời thứ 4 đại sư Hải Trinh, đời thứ 5 tổ sư Tịch Lâm Đồng kính cánh chủ, đời thứ 6 đại sư Huệ Quang Chiếu Trí, đời thứ 7 đại sư Phổ Thuận, đời thứ 8 đại sư Thông Tuệ” [8, 23a]. Thiền sư Phúc Điền lại khảo về hệ kế đăng chùa Cao cũng ghi lại hai vị thiền sư Phổ Thuận Thanh Nhã cùng Xuân Lôi Thông Tuệ. Không biết vì cớ gì mà thiền sư Phúc Điền lại cho hai thiền sư này truyền theo bài kệ của dòng Lâm Tế. Đây là một nan giải cần được biện chính.
Cách viết của Phúc Điền cần bàn lại là từ thiền sư đời thứ 6 là Huệ Quang Chiếu Trí. Chúng tôi nhận thấy tác giả cho các thế hệ này vào dòng Lâm Tế nhưng thực ra ba vị sau lại truyền thừa theo dòng Tào Động. Chiếu Trí chính là Giác Trí, Phổ Thuận chính là Đạo Thuận, Thông Tuệ chính là Sinh Tuệ. Giác Trí sau khi mất được học đồ xây tháp là Tuệ Quang, có thể lúc còn sống ông cũng có hiệu này. Tại nước ta xưa ít phân biệt rõ “Huệ” hay “Tuệ” do đó Phúc Điền chép Huệ Quang còn Khoa cúng tổ chép Tuệ Quang. Thông qua các tư liệu như Đống Cao Tự chung, bản in Pháp Giới an lập đồ, Quán Lăng Già ký… đều ghi lại tên các vị là Giác Trí, Đạo Thuận, Sinh Tuệ. Các thiền sư như Giác Trí, Đạo Thuận, Sinh Tuệ lúc đầu tu học trước từ phái Lâm Tế và cho pháp danh theo bài kệ. Thế nhưng khi sang tham học với các thiền sư phái Tào Động lại trở thành học đồ truyền pháp do đó các ngài dịch danh sang bài kệ thiền phái Tào Động. Do đó, thiền sư Phúc Điền có cớ viết tên pháp danh của họ theo bài kệ dòng Lâm Tế.
Điều này sẽ sáng tỏ hơn khi chúng ta xét hành trạng thiền sư Sinh Tuệ. Theo Khóa hư lục thì: “Lúc đó, tăng Thanh Hương, chùa Do Nha, Vũ Giang bưng ra Khóa hư lục một tập ba quyển”. Cuối sách lại cho ta một thông tin như: “Nay Thanh Hương tỳ-kheo pháp danh Thông Tuệ, chùa Khánh Phúc, xã Do Nha, tổng Bất Phí, huyện Vũ Giàng, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh in khóa Hư Lục 1 tập 3 quyển đã xong”. Thông tin cho biết tỳ-kheo Thanh Hương có pháp danh là Thông Tuệ ở chùa Khánh Phúc mà nhân dân gọi là chùa Do Nha. Trong đó, thiền sư có mời ngài Giác Trí chứng san, ngài Đạo Thuận đốc san. Thế nhưng, trong Đại Thừa Khởi Tín Luận do thiền sư Tâm Hội Bí sô Quang Minh thích Đường Đường, thư kí chùa Đại Giác Bồ Sơn cũng ở am Tín Đức, chùa Báo Ân, xã Bất Phí, huyện Võ Giang, phủ Từ Sơn đứng in tác phẩm vào năm Thiệu Trị Tân Sửu (1841), phần cuối có ghi lại những vị hộ kinh, trong đó: “Tiêu Sơn Thiên Tâm Tự Thanh Hương tỳ-kheo pháp danh Sinh Tuệ”. Qua các cứ liệu trên, chúng ta biết khi thiền sư Thanh Hương đứng in Khóa Hư Lục vào năm Minh Mệnh Canh Tý (1840) có pháp danh là Thông Tuệ, tức theo bài kệ của dòng Lâm Tế. Sau một năm, thiền sư lại dùng pháp danh Sinh Tuệ, theo bài kệ dòng Tào Động. Như thế, thiền sư Thanh Hương cũng hấp thu từ hai dòng thiền Lâm Tế và Tào Động.
Có thể khi biện chính về hiện tượng Lâm Tào tương kế trong các ngôi chùa thuộc đồng bằng bắc bộ cần phải có một chuyên luận nghiên cứu sâu hơn, nên ở đây chúng tôi không quá dài dòng. Lí giải như thế để chúng ta thấy được hệ thống truyền thừa tại chùa Tiêu có sự phức tạp qua hiện tượng Lâm Tào tương kế, để làm sáng tỏ hơn việc tông phái thiền sư Như Trí.
Từ thiền sư Như Trí đến thiền sư Tịch Lâm thì vẫn truyền thừa theo thiền phái Lâm Tế. Khi đến thiền sư Chiếu Trí hay Giác Trí thì chùa truyền thừa theo phái Tào Động và có nhiều lúc vẫn dùng pháp danh theo phái Lâm Tế. Sau này, chùa Tiêu không còn cho pháp danh theo bài kệ phái Lâm Tế nữa mà sử dụng và tuân thừa theo phái Tào Động cho đến sau này. Như thế, thiền sư Như Trí không thể qui kết vào dòng Tào Động được như có người đã đề xuất.
Nhân đây, chúng tôi nhận thấy Lê Mạnh Thát cho thiền sư Như Trí thuộc dòng Minh Châu Hương Hải là thiếu căn cứ. Thực ra, thiền sư Minh Châu Hương Hải cũng có một pháp tôn tên tự là Như Trí. Thiền sư Như Trí là đệ tử của đại hòa thượng Chân Lý, chùa Nguyệt Đường. Ngài nằm trong cơ quan Tăng lục ty, trụ trì viện Tào Khê, viên tịch năm Kỷ Mùi (1739). Chúng tôi dựa vào tư liệu của Nguyễn Đức Bảng nhưng đọc đoạn dịch Thiền phả viện Tào Khê thì thấy tác giả này chưa hiểu đúng nguyên tác [4, tr. 71-72]. Lê Mạnh Thát lấy danh sách các đệ tử của thiền sư Như Trí trong bản in Thiền uyển tập anh rồi qui kết thuộc dòng thiền Minh Châu Hương Hải là thiếu cơ sở. Lúc này, hiện tượng trùng lặp tên là rất phổ biến trong một dòng thiền, ngay cả một số thiền sư phái Lâm Tế lại trùng tên với các thiền sư phái Tào Động nên việc qui kết tông phái là một công việc khó, cần các tư liệu hỗ trợ để đưa đến kết luận chính xác.
Từ những cứ liệu trên, chúng tôi cùng quan điểm với các học giả Nguyễn Lang, Nguyễn Lân Cường xác nhận thiền sư Như Trí là đệ tử của thiền sư Chân Nguyên, truyền thừa theo tông Lâm Tế. Thiền sư Như Trí sau thời gian học đạo trên núi Yên Tử, trác tích về chùa Tiêu, xây dựng đạo tràng Tiêu Sơn trở thành tùng lâm, thu nhận đồ chúng, phát huy thiền phái. Học theo hạnh thầy, thiền sư Như Trí đứng in Thiền Uyển tập anh, giữ lại một văn bản sử học Phật Giáo Việt Nam. Sau khi viên tịch, thiền sư đã để lại nhục thân được an tàng trong bảo tháp Viên Tuệ.
Tài Liệu Tham Khảo
Lê Mạnh Thát (2000), Toàn tập Minh Châu Hương Hải, Nxb TP. HCM.
Lê Mạnh Thát (2002), Tổng Tập văn học Phật Giáo Việt Nam, tập 3, Nxb TP Hồ Chí Minh.
Nguyễn Lang (1993), Việt Nam Phật Giáo Sử Luận II, NXB Lá Bối, USA.
Nguyễn Đức Bảng (2007), Lịch sử chùa Hương Tích, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
Tổng tập thác bản văn khắc hán nôm, tập 3, Nxb Văn hóa – Thông Tin, H. 2005, tr. 889.
Văn Bia Thừa Bình tháp ký tại chùa Dâu, do thiền sư Tính Quảng Thích Điều Điều soạn, lập năm Cảnh Hưng thứ 17 (1756), thác bản lưu tại Tủ sách Pháp Đăng.
Văn Bia Kết Liên hoa tuyển phật đồ tại chùa Bảo Quang-Bắc Ninh, do thiền sư Tính Quảng Thích Điều Điều soạn, lập năm Cảnh Hưng thứ 24 (1763), thác bản lưu tại Tủ sách Pháp Đăng.
Tiêu Sơn Thiên Tâm cúng tổ khoa, bản chép năm Tự Đức 3, do Tịnh Từ soạn, Viện nghiên cứu hán nôm, kí hiệu A. 2025.
Thiền Uyển Truyền Đăng Lục, quyển hạ của hòa thượng Phúc Điền, Tủ sách Pháp Đăng.
Kiến tính Thành Phật (1698), thiền sư Chân Nguyên soạn, bản in lại năm Minh mệnh 6 (1825), bản lưu tại chùa Sùng phúc-Gia lâm. Thư viện Viện Nghiên Cứu Hán Nôm, kí hiệu A. 2570.
Đống Cao tự chung do thiền sư Giác Trí, chùa Tiêu soạn năm Minh Mệnh 2 (1821), thác bản lưu tại tủ sách Pháp Đăng.
Pháp Giới An Lập Đồ do Tỳ kheo Thông Đại Tuệ Phong, chùa Bảo Quang đứng in năm Tự Đức Giáp Dần (1854), bản lưu tại Tủ sách Pháp Đăng.
Quán Lăng Già Ký bản in năm Minh Mệnh
Nguyễn Lân Cường (2009), Bí mật phía sau nhục thân của các thiền sư, Nxb Thế Giới, Hà Nội.
Tiêu Sơn tự và sự ngộ nhận tông phái về Như Trí thiền sư, Phạm Tuấn.
Viên Dung tháp, văn bia tại chùa Tiêu. Thác bản tủ sách Pháp Đăng.
Ngô Quốc Trưởng, “Về bài kệ truyền pháp của thiền sư Minh Hành Tại Tại”, Pháp Luân, số 67, 2009, Tr. 89-96.
Khóa hư lục, bản in năm Minh Mệnh Canh Tý (1840), bản lưu tại chùa Đống Cao, xã Đại Tráng, huyện Võ Giàng. Tủ sách Pháp Đăng.
Đại Thừa Khởi Tín Luận do thiền sư Tâm Hội, am Tín Đức, chùa Báo Ân, xã Bất Phí, huyện Võ Giang, phủ Từ Sơn đứng in vào năm Thiệu Trị Tân Sửu (1841). Thư viện viện nghiên cứu Hán Nôm, kí hiệu AC. 330.
Ngũ gia phân phái do thiền sư Đạo Nguyên Khoan Dực soạn, thiền sư Đạo Sinh Quang Lịch bổ biên. Bản lưu tại viện nghiên cứu Hán Nôm, kí hiệu AC. 502.
Chú Thích:
1. Tiêu biểu là Hà Văn Tấn cho rằng: “Nghiên cứu Lịch sử Phật Giáo, ta biết rằng bấy giờ phái Lâm Tế thường muốn gắn với phái Trúc Lâm đời Trần”. (Bia chùa Giám với thiền sư Tuệ Tĩnh in trong Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1992, tr.257)
2. Điều này đã quá rõ khi chúng ta tham khảo tư liệu Ngũ Gia Phân Phái, AC. 502, tờ 36. Trong đó thiền sư Đạo Nguyên phú chúc cho thiền sư Giác Trí, chùa Tiêu vào năm Giáp Tuất (1814).

Ngô Quốc Trưởng
[Tập san Pháp Luân - số 73, tr31, 2010]

 

Contact Information

Phone
Array
Address Array
This entry was posted in . Bookmark the permalink.