TS Tung Nhạc Nguyên Khuê

Personal Information

Danh Tánh
TS Tung Nhạc Nguyên Khuê
Gender ♂️ Male

Hành Trạng

Additional Info

元 珪 (644-716). Thiền tăng Bắc Tông sống vào đời Đường, họ Lý, người xứ Y Khuyết (nay là huyện Y Xuyên, tỉnh Hà Nam) Trung Quốc. Xuất gia từ thuở bé, đến năm thứ hai niên hiệu Vĩnh Thuần (683) Sư thụ giới cụ túc, đến chùa Nhàn Cư ở Tung Sơn nghiên cứu giới luật, học Tỳ-ni không biết mỏi mệt. Sau đó tham yết Quốc sư Huệ An, đốn ngộ huyền chỉ, rồi dời đến Bàng Ổ, đỉnh núi Tung Nhạc. Cuộc đời giáo hóa của Sư từng gặp phải vài việc lạ như: thần nhân xin quy y thụ giới, giúp sư sửa chùa khiến sư càng thêm nổi tiếng.

*

Một hôm, có một người lạ đội mũ cao mặc phục trang đi đến, người theo rất đông, bước đi nhẹ nhàng thư thả, nói là yết kiến Đại sư.
Sư thấy hình dung của vị ấy kỳ vĩ phi thường, bèn nói với ông ta rằng:
- Thiện lai tôn giả, vì sao mà đến?
Người kia đáp:
- Thầy biết tôi ư?
Sư bảo:
- Tôi xem Phật cùng chúng sanh bình đẳng, tôi nhìn như nhau, há phân biệt ư?
Vị kia đáp:
- Tôi là vị thần ở núi Nhạc này. Có thể làm người sống chết, thầy đâu thể xem tôi như thế!
Sư bảo:
- Tôi vốn không sanh, ông làm sao khiến tôi chết?. Tôi thấy thân cùng hư không bình đẳng, thấy tôi và ông cũng bình đẳng, ông có thể hoại hư không và ông sao?. Giả sử ông có thể hoại được hư không và ông thì tôi cũng không sanh không diệt. Ông còn chẳng thể làm như thế, sao có thể định được sự sống chết của tôi?.
Vị thần rập đầu thưa:
- Con thông minh chánh trực hơn các vị thần khác, nào biết Sư có trí tuệ biện tài rộng lớn thế ư?. Xin được truyền trao chánh giới, khiến con độ được thế nhân.
Sư bảo:
- Ông đã xin giới, tức đã có giới vậy. Vì cớ sao? Vì ngoài giới không có giới, lại còn giới gì!
Vị thần thưa:
- Lý này con nghe mờ mịt không rõ, chỉ xin thầy truyền giới và nhận con làm đệ tử.
Sư liền bày tòa, cầm đuốc, bày bàn nói:
- Trao ông năm giới, nếu có thể giữ được thì đáp được, nếu không thể thì đáp không.
Vị thần thưa:
- Con xin được thọ giáo
Sư bảo:
- Ông giữ được giới không dâm chăng?.
Thưa:
- Con cũng lấy vợ rồi.
Sư bảo:
- Chẳng nghĩa như thế, nghĩa là không tóm lấy hết dục.
Thưa:
- Được.
Sư bảo:
- Ông giữ được giới không trộm cướp chăng?
Đáp:
- Con đâu thiếu gì, sao lại trộm cướp?
Sư bảo:
- Chẳng phải ý này, hưởng thụ là phước của chìm đắm, không cúng dường thì họa của thiện vậy.
Đáp:
- Được.
Sư hỏi:
- Ông giữ được giới không sát sanh chăng?
Đáp:
- Thực ra người cai quản nắm mọi quyền hành, vì sao không thể sát sanh?.
Sư bảo:
- Chẳng phải ý này, nghĩa là có sự tùy tiện, lầm lẫn, không minh bạch, cẩu thả, gian dối.
Đáp:
- Được.
Sư hỏi:
- Ông giữ được giới không vọng ngữ chăng?
Đáp: Con ngay thẳng, sao lại nói dối?.
Sư bảo: Chẳng phải ý này, nghĩa là trước sau không hợp với ý trời vậy.
Đáp:
- Được.
Sư hỏi:
- Giữ được giới không uống rượu chăng?
Đáp:
- Được.
Sư bảo:
- Trên đây là giới của Phật vậy. Lại nói: “Có tâm phụng trì mà không tâm câu chấp, có tâm vì người mà không có tâm nghĩ đến thân. Được như thế thì trước khi trời đất sanh không vì thế mà thuần nhất, sau khi trời đất diệt không vì thế già, trọn ngày biến đổi nhưng không vì thế mà động, rốt ráo vắng lặng nhưng không vì thế mà ngừng. Thật được như thế thì tuy cưới vợ mà chẳng phải vợ vậy, tuy hưởng thụ mà không theo, tuy nắm quyền mà không uy quyền, tuy làm mà không cố ý, tuy say mà không hôn mê. Nếu có thể vô tâm đối với vạn vật, thì ở trong lưới dục không vì thế mà dâm dục, phước nhiều họa lắm nhưng không vì thế mà trộm cướp, tạo nhiều lỗi lầm nghi ngờ lẫn nhau không vì thế mà sát sanh, trước sau trái ý trời không vì thế mà nói dối, mê mờ điên đảo không vì thế mà say, đó gọi là vô tâm vậy. Vô tâm tức không giới, không giới thì không tâm, không Phật không chúng sanh, không ông cũng không ta, ai là người giữ giới?”.
Thần thưa:
- Thần thông của tôi thua Phật chút đỉnh.
Sư bảo:
- Thần thông của ông mười, năm có thể năm không thể. Phật mười thì bảy có thể ba không thể.
Vị thần sợ hãi rời khỏi chiếu quỳ thưa:
- Con có thể được nghe chăng?
Sư bảo:
- Ông có thể lên thượng đế, đi từ trời đông sang trời tây bảy bước chăng?.
Thần đáp:
- Không thể.
Sư bảo:
- Ông có thể chế ngự thổ thần, dung hợp ngũ nhạc kết liền bốn biển chăng?.
Đáp:
- Chẳng thể.
Sư bảo:
- Đó là năm câu không thể vậy.
Phật có thể không tất cả tướng, thành bậc của muôn pháp, nhưng không thể ngay đó diệt được định nghiệp. Phật có thể biết chúng sanh có tánh, và việc vô số ức kiếp, nhưng không thể hóa độ người không có duyên. Phật có thể độ vô lượng hữu tình, nhưng không thể độ hết thảy chúng sanh giới. Đó là ba điều không thể.
Định nghiệp cũng không cố định, không duyên cũng là tạm thời. Chúng sanh giới vốn không tăng giảm, rốt cuộc không một người có thể làm chủ pháp kia.
Có pháp không chủ, đó gọi là không pháp. Không pháp không chủ, đó gọi là vô tâm. Như ta biết Phật cũng không có thần thông vậy. Nhưng Ngài có thể dùng vô tâm thông đạt tất cả pháp này.
Vị thần thưa:
- Con thật cạn cợt ngu muội, chưa nghe nghĩa không. Những Giới được truyền, con sẽ thọ trì. Nay nguyện báo từ đức, sẽ làm theo khả năng của mình.
Sư bảo:
- Ta quán thân không một vật, quán pháp vô thường, sống một mình lại mong cầu điều gì?.
Vị thần thưa:
- Nếu như Thầy bảo con vì việc thế gian, thi triển chút ít công lực thần linh của mình, khiến năm hạng người đã phát tâm, người mới phát tâm, người chưa phát tâm, người không tin tâm, người tin tâm thấy thần tích của con, biết có Phật có thần, có điều làm được có điều chẳng làm được, có siêu phàm hay không siêu phàm.
Sư bảo:
- Đâu cần như thế, đâu cần như thế.
Vị thần thưa:
- Phật cũng cho thần linh hộ pháp, Thầy lẽ nào làm trái Phật ư?. Xin tùy ý dạy bảo.
Sư bất đắc dĩ nói:
- Núi Đông là bình phong che chùa, cỏ nhiều nhưng không có cây. Bên núi Bắc có cây mà sau lưng nên không che chắn được. Ông có thể dời cây bên núi Bắc sang núi Đông được chăng?
Vị thần thưa:
- Con đã nghe lời chỉ bảo, tuy nhiên ban đêm có tiếng động lớn, xin Thầy chớ kinh hãi.
Vị thần liền làm lễ từ biệt đi. Sư đưa ra cửa, sau đó nhìn thấy vệ sĩ nghi trượng uốn lượn, như hình dạng của bậc vương giả khói sương mây mù, đan xen lẫn nhau, tràng phan ngọc bội cao vút che cả hư không.
Tối đó, quả thực có cơn gió rất mạnh gào thét, mây giăng điện chớp nhà cửa lung lay, tiếng chim trên tổ kêu huyên náo.
Sư nói với chúng rằng:
- Chớ sợ, chớ sợ! Thần cùng ta bàn định rồi.

*

Bình minh ấm áp, cây cối bên núi Bắc dời sang núi Đông, um tùm và ngay thẳng. Sư nói với đồ chúng rằng:
- Sau khi ta tịch, không để bên ngoài biết, nếu nói ra, người sẽ lấy làm lạ về ta.
Năm Bính thìn niên hiệu Khai Nguyên thứ tư (716) Sư căn dặn đệ tử rằng:
- Ta lúc đầu ở chùa bên núi đông, ta tịch rồi các ông an trí hài cốt của ta ở bên đó.
Sư nói xong ung dung từ biệt.

---o0o---

Nhàn Cư Tự

Chùa Nhàn Cư ban đầu là Ly cung của Ngụy Hiếu Văn Đế (471-499), đến niên hiệu Chánh Quang năm đầu (520) lại lập thành Nhàn Cư Tự 閑居寺.
Nhà Tùy, niên hiệu Khai Hoàng thứ năm (585) đổi tên là Tung Nhạc Tự 嵩嶽寺, về sau Tùy Văn Đế sắc tứ ban tên Hội Thiện Tự 會善寺.
Vũ Hậu Tắc Thiên tuần du đến chùa này, bái thiền sư Đạo An làm Quốc sư, ban sắc chùa tên An Quốc Tự 安國寺.
Hội Thiện Tự hiện còn nhiều văn bia trong chùa.

Contact Information

Phone
Array
Address Array
This entry was posted in . Bookmark the permalink.