TS Vân Cư Đạo Ưng

Personal Information

Danh Tánh
Tổ Thứ 39 - TS Vân Cư Đạo Ưng - Ðời Thứ 2 Tông Tào Động
Gender ♂️ Male

Hành Trạng

Additional Info

THIỀN SƯ VÂN CƯ ĐẠO ƯNG ở HỒNG CHÂU

PHÁP TỰ ĐỜI THỨ NĂM của THANH NGUYÊN HÀNH TƯ

PHÁP TỰ của THIỀN SƯ ĐỘNG SƠN LƯƠNG GIỚI

Sư họ Vương, người Ngọc Điền U Châu. Từ thuở thơ ấu, sư đã theo thầy xuất gia. Hai mươi lăm tuổi sư thọ giới cụ túc tại chùa Phạm Dương. Bổn sư bảo sư hãy tập thiền Thanh văn, sư than rằng:

- Đại trượng phu há lại chịu gông cùm trói buộc nơi luật sao?

Bèn đến núi Thúy Vi hỏi đạo. Trải qua 3 năm, có tăng vân du từ Dự Chương đến, khen dồi pháp tịch của Động Sơn Lương Giới. Sư bèn đến tham yết Lương Giới. Động Sơn hỏi:

- Xà-lê tên gì?

Đáp:

- Đạo Ưng.

Động Sơn hỏi:

- Hướng thượng nói đi !

Sư nói:

- Nếu hướng thượng mà nói thì đã không tên Đạo Ưng.

Động Sơn nói:

- Cùng với ta hồi ở Vân Nham đối đáp chẳng khác chút nào.

Về sau, sư hỏi:

- Thế nào là chỉ ý của Tổ sư từ Tây lại?

Động Sơn nói:

- Xà-lê nếu sau này làm trụ trì (1), bỗng có người hỏi xà-lê câu đó thì đối đáp thế nào?

Chú (1): Nguyên văn ‘Bả mao cái đầu’, nghĩa đen là cắt cỏ tranh mà che đầu, hàm ý chỉ làm trụ trì.

Sư nói:

- Đạo Ưng tội lỗi.

*

Động Sơn có lúc nói với sư:

- Ta nghe Hòa thượng Tư Đại tái sanh ở nước Nhật Bổn làm vua, thật giả thế nào vậy?

Sư đáp:

- Nếu là Tư Đại thì Phật còn không thèm làm, huống hồ là quốc vương.

Động Sơn cho là phải.

*

Một hôm, Động Sơn hỏi:

- Từ đâu đến đây?

Sư đáp:

- Đạp núi mà đến.

Động Sơn nói:

- Núi nào trụ được vậy?

Sư đáp:

- Núi nào mà lại không trụ được?

Động Sơn nói:

- Nếu thế thì núi trong cả nước đều bị xà-lê chiếm hết.

Sư nói:

- Không phải thế !

Động Sơn nói:

- Nếu thế thì ông đã được con đường ngộ nhập rồi.

Sư nói:

- Không có con đường nào cả.

Động Sơn nói:

- Nếu không có con đường nào thì làm sao cùng lão tăng gặp gở ?

Sư nói:

- Nếu có con đường thì đã cách xa Hòa thượng rồi vậy.

Động Sơn nói:

- Gã này về sau ngàn người, muôn người nắm bắt không được.

*

Sư theo Động Sơn đi qua chỗ nước, Động Sơn hỏi:

- Nước sâu hay cạn?

Sư nói:

- Không ướt.

Động Sơn nói:

- Người thô lậu.

Sư nói:

- Thỉnh sư nói !

Động Sơn nói:

- Không khô hạn.

*

Động Sơn nói cùng sư:

- Xưa Hòa thượng Nam Tuyền Phổ Nguyện hỏi tăng giảng kinh Di Lặc hạ sanh rằng: ‘Bao giờ thì Di Lặc hạ sanh?’. Tăng ấy nói: ‘Thấy tại thiên cung, sẽ hạ sanh thôi’. Nam Tuyền nói: ‘Trên trời không có Di Lặc. Dưới đất không có Di Lặc’.

Sư nghe qua lời thuật trên nói:

- Nếu như trên trời không có Di Lặc, dưới đất không có Di Lặc, xin hỏi ai là người an tự?

Động Sơn bước xuống rung rinh giường Thiền nói:

- Xà-lê Ưng.

*

Sư đang trộn tương, Động Sơn hỏi:

- Dùng muối nhiều ít?

Sư nói:

- Cho vô cả.

Động Sơn nói:

- Trộn mặn thế để làm gì?

Sư nói:

- Được.

Động Sơn hỏi:

- Kẻ đại xiển đề giết cha mẹ, làm chảy máu thân Phật, phá hoại hòa hiệp tăng, như vậy thì các thứ hiếu dưỡng ở nơi nào?

Sư nói:

- Như vậy mới được hiếu dưỡng.

Từ đó Động Sơn mới hứa khả, cho đứng đầu trong thất.

*

Ban sơ, sư trụ ở Tam Phong, việc hoằng hóa nơi đây chưa rộng. Sau sư khai hóa ở núi Vân Cư, bốn chúng tụ tập đông đảo. Ngày nọ, sư thượng đường, nhân thuật lại lời của người xưa rằng: ‘Địa ngục chưa phải là khổ, hướng dưới áo nạp cà-sa mà chẳng rõ sanh tử đại sự làm thất bại mới là khổ nhất’, sư bèn nói với chúng rằng:

- Các ông nếu đã ở trong hàng ngũ đó, mười phần mất chín cũng chưa cho là nhiều. Vả cũng nên cố gấng chút sức lực, liền là thượng tọa không ủy khuất bình sanh hành cước, chẳng cô phụ tùng lâm. Người xưa nói: ‘Như muốn bảo nhiệm chuyện đó thì nên hướng về đỉnh núi cao cao mà đứng, đi dưới nước sâu sâu, mới gọi là có chút khí lực’. Các ông nếu chuyện lớn chưa biện biệt được, thì nên giẫm bước trên con đường huyền diệu.

*

Hỏi:

- Thế nào là điều sa-môn coi trọng?

Sư nói:

-Tâm thức không đến chỗ.

Hỏi:

- Phật và Tổ có thứ bậc gì?

Sư nói:

- Đều là thứ bậc.

Hỏi:

- Thế nào là chỉ ý của Tổ sư từ Tây lại?

Sư đáp:

- Đường xưa không gặp người.

*

Thượng tọa Khả Quan hỏi:

- Đích bãi tiêu chỉ, thỉnh sư tốc tiếp !

Sư nói:

- Nếu nay thì thế nào?

Quan nói:

- Nói thì chẳng không, đừng lĩnh thoại thì tốt hơn.

Sư nói:

- Hà tất xà-lê.

*

Tăng hỏi:

- Thế nào là khẩu quyết?

Sư nói:

- Tới gần đây nói cùng ông !

Tăng bước lại gần nói:

- Thỉnh sư nói !

sư nói:

- Cũng biết mà ! Cũng biết mà !

*

Sư liệng đồ hỏi:

- Có lãnh hội không?

Đáp:

- Không lãnh hội.

Sư nói:

- Ném đuổi chim sẻ mà cũng không biết.

Hỏi:

- Làm thế nào thì không não loạn Hòa thượng ?

Sư nói:

- Đi gọi Xứ Đức đến giùm ta !

Tăng bèn đi gọi đến, sư nói:

- Đóng cửa lại giùm ta !

*

Hỏi:

- Mã Tổ cho ra đời được 84 thiện tri thức, xin hỏi Hòa thượng cho ra đời được bao nhiêu người?

Sư dang tay ra chỉ thị. Hỏi:

- Thế nào là chỗ hành động của người hướng thượng?

Sư nói:

- Thiên hạ thái bình.

Hỏi:

- Đứa con phiêu du quay về nhà thì thế nào?

Sư đáp:

- Nên mừng nó trở về.

Hỏi:

- Lấy gì phụng hiến?

Sư nói:

- Sớm đánh ba ngàn, chiều đánh tám trăm.

*

Sư nói với chúng rằng:

- Như chó săn giỏi, chỉ biết tìm đến dấu tích. Bỗng gặp con linh dương ngủ treo sừng thì ngay cả khí thở còn không biết, nói gì tới dấu tích.

Tăng hỏi:

- Con linh dương treo sừng thì thế nào?

Sư nói:

- Sáu lần sáu là ba mươi sáu.

Lại hỏi:

- Lãnh hội không?

Tăng nói:

- Không lãnh hội.

Sư nói:

- Há không nghe nói ‘Không dấu tích’

Có ông tăng đem chuyện thuật lại cho Triệu Châu. Triệu Châu nói:

- Sư huynh Vân Cư do tại.

Tăng bèn hỏi:

- Linh dương treo sừng (1) thì thế nào?

Triệu Châu nói:

- Sáu lần sáu là ba mươi sáu.

Chú (1): Nguyên văn ‘Linh dương quải giác’, nghĩa là con linh dương lúc ngủ móc sừng trên cành cây khiển cho chó săn giỏi cũng không thể đánh hơi theo dấu được, hàm ý chỉ Thiền ý miên mật, sâu kín.

*

Chúng tăng tham vấn ban đêm, thị giả cầm đèn đến, thấy ảnh dọi trên tường liền có ông tăng hỏi:

- Hai cái giống nhau thì thế nào?

Sư nói:

- Một cái là ảnh.

Tăng hỏi:

- Con định về quê thì thế nào?

Sư nói:

- Điều đó thì đúng đấy.

*

Tăng nước Triều Tiên hỏi:

- Phật Đà Ba Lợi thay Văn Thù thì sao lại quay về?

Sư đáp:

- Chỉ vì không tới, nên mới quay về.

*

Sư nói với chúng rằng:

- Người học Phật pháp như chém đinh, chặt sắt mới được.

Lúc đó, có một ông tăng bước ra hỏi:

- Tiện thỉnh Hòa thượng chém đinh, chặt sắt !

Sư nói:

- Trong miệng là cái gì thế?

Tăng hỏi:

- Thừa mong trong Giáo có dạy: ‘Người ấy đời trước tội nghiệp nên phải đọa đường ác, bị người đời nay khinh rẻ. Ý ấy thế nào?

Sư nói:

- Động tức phải đọa đường ác. Tịnh tức tức bị người khinh rẻ

Sùng Thọ Trù đáp rằng:

- Tâm ngoại có pháp phải đọa đường ác. Thủ trụ tự kỷ, bị người khinh rẻ.

*

Tăng hỏi:

- Cơm ngon Hương Tích ai là người được ăn?

Sư đáp:

- Nên biết rằng người được ăn nuốt vô miệng rồi còn phải nhả ra.

*

Có một ông tăng niệm kinh trong phòng. Sư đứng ngoài song cửa sổ hỏi:

- Kinh mà xà-lê niệm là kinh gì đó?

Tăng đáp:

- Kinh Duy Ma.

Sư nói:

- Không hỏi kinh Duy Ma, kinh mà xà-lê đang niệm là kinh gì? Ông tăng từ đó có được lối ngộ nhập.

*

Hỏi:

- Chơ vơ chớn chở thì thế nào?

Sư đáp:

- Chơ vơ chớn chở.

Tăng nói:

- Không lãnh hội.

Sư nói:

- Trước mặt chần vần cái núi mà không biết.

Tăng Triều Tiên hỏi:

- Tại làm sao mà lại khó nói như thế?

Sư nói:

- Cái điều gì khó nói?

Tăng nói:

- Tiện thỉnh Hòa thượng nói !

Sư nói:

- Triều Tiên ! Triều Tiên !

*

Hỏi:

- Người sáng mắt mà sao lại nhìn tối om như thùng sơn đen?

Sư nói:

- Sao mà lại ngạc nhiên.

*

Quan Tiết độ sứ ở Kinh Nam khiển đại tướng vào núi đưa vật cúng dường, hỏi:

- Thế Tôn có mật ngữ, Ca Diếp chẳng che đậy. Thế nào là mật ngữ của Thế Tôn?

Sư gọi:

- Thượng thư !

Người ấy lên tiếng dạ, sư hỏi:

- Lãnh hội không?

Đáp:

- Không lãnh hội.

Sư nói:

- Ông nếu chẳng lãnh hội thì Thế Tôn có mật ngữ, ông nếu lãnh hội thì Ca Diếp chẳng che đậy.

*

Tăng nói:

- Vừa sanh vì sao lại không tri hữu?

Sư đáp:

- Tri hữu không cùng sanh.

Hỏi:

- Thế khi chưa sanh thì sao?

Sư đáp:

- Chưa từng diệt.

Hỏi:

- Lúc chưa sanh thì ở tại đâu?

Sư nói:

- Có chỗ không thâu.

Hỏi:

- Ai là người thọ diệt?

Sư nói:

- Ấy là diệt không được vậy.

*

Sư nói với chúng rằng:

- Sư tăng các ông phát ngôn, thổ khí phải có lý do. Phàm hỏi việc phải biết tốt xấu, tôn ti, lành dữ. Tín khẩu vô ích. Đi từ nhà đến nơi chốn tìm lời tương tự. Do đó mà lúc bình thường ta thường nói với các anh em, đừng ngạc nhiên không giống nhau, e kẻ đồng học đi nhiều quá. Thứ nhất đừng đem tới. Đem tới chẳng giống nhau. Ông già 80 ra khỏi trường thi, chẳng phải đứa trẻ con đùa bỡn. Một lời sai trật, ngàn dặm muôn dặm, khó có thể thu nắm lại được. Cho đến gõ xương, đánh tủy, phải có lai do. Lời lẽ phải như kềm siết, câu khóa tiếp nối chẳng đứt rời mới được. Đâu đâu thượng cụ, vật vật thượng tân, mà còn chưa phải là chuyện tinh diệu. Nói cho các ông biết có người rốt lại chăng thủ thứ. Thập độ nghĩ phát lời thì chín bận lại thôi đấy. Tại làm sao như thế? Chỉ e sợ là không lợi ích chi. Người thể đắc tâm như vành trăng tháng chạp. Bên mép cho dù nổi meo, cũng chẳng phải cưỡng vi. Nhiệm vận như thế, muốn được việc như thế, phải có người như thế. Nếu đã là người như thế, lo gì chuyện như thế. Học Phật bên rìa, là dụng lầm tâm. Dù cho có hiểu được ngàn kinh, muôn luận, giảng hay cho đến nỗi hoa trời rơi tuôn, đá gật dầu, cũng chẳng liên can gì đến chuyện chính mình, huống chi là chuyện khác. Có chỗ dùng được ru? Nếu đem tâm thức hữu hạn mà làm dụng trong vô hạn thì chẳng khác nào đem cây dùi gỗ vuông mà xoáy lỗ tròn vậy, thì sai trật thôi. Dù cho gom hoa dệt gấm, sự sự đều được, tức được trọn mọi sự, thì cũng chỉ gọi là người biết việc không lầm lỗi mà thôi, rốt lại cũng không gọi là tôn quý. Biết rằng bên rìa tôn quý thì làm được vật gì? Há không nghe nói cái gì từ ngoài cửa vào đều không phải là của báu nhà mình, cây gậy đâu thành được con rồng. Có biết không vậy?

Sư trong 30 năm khai phát khóa huyền như thế, đồ chúng thường có đến 1.500 người. Họ Chu ở Nam xương lại càng khâm trọng. Năm đầu đời Đường Thiên Phúc, sư hơi có chút bịnh. Ngày 28 tháng chạp vì đại chúng giảng pháp lần sau cùng, trưng tập các ý từ lúc xuất thế, giảng pháp cho đến lúc mất. Mọi người đều buồn thảm. Đến ngày mùng 3 tháng giêng năm sau ngồi kiết già mà qua đời. Nay tại bổn sơn, ảnh đường vẫn còn. Sắc thụy Hoằng Giác Đại Sư, tháp tên Viên Tịch.

PHẦN PHỤ LỤC:

Sư thượng đường nói:

- Như có người đem ba quan tiền định mua heo chó gì đó, nên chỉ có thể tìm đến vật gì có dấu vết, còn nếu gặp phải con linh dương ngủ treo sừng, thì đừng nói chi đến tung tích, ngay cả hơi thở cũng không có.

Tăng hỏi:

- Lúc con linh dương treo sừng thì thế nào?

Sư đáp:

- Sáu lần sáu là ba mươi sáu.

Tăng hỏi:

- Sau khi treo sừng thì thế nào?

Sư đáp:

- Sáu lần sáu là ba mươi sáu.

Tăng lễ bái, sư hỏi:

- Lãnh hội không?

Đáp:

- Không lãnh hội.

Sư nói:

- Há chẳng nghe nói ‘Không tung tích’ đó sao?

(Theo Ngũ Đăng Hội Nguyên quyển 13)

Contact Information

Phone
Array
Address Array
This entry was posted in . Bookmark the permalink.