0-TS Vân Phong Văn Duyệt

Personal Information

Danh Tánh
0-TS Vân Phong Văn Duyệt
Gender ♂️ Male

Hành Trạng

Additional Info

1. Thiền sư Văn Duyệt ở Vân phong. Thiền sư Văn Duyệt ở Vân phong tại Nam nhạc, vốn người dòng họ Từ ở Nam xương. Mới đầu Sư đến nơi pháp tòa Ðại ngu, nghe Thiền sư Chi chỉ dạy đại chúng rằng: “Mọi người cùng nhóm tụ ăn rau hành dưa muối, nếu ăn một cọng rau hành dưa muối thì vào địa ngục nhanh như tên bắn”. Rồi xuống khỏi tòa. Sư rất kinh sợ, ban đêm Sư tìm đến nơi phương trượng. Thiền sư Chi hỏi: “Ông đến mong cầu gì?” Sư đáp: “Cầu tâm pháp”. Thiền sư Chi bảo: “Pháp luân chưa chuyển vận. Thực luân chuyển vận trước, sau sẽ sinh theo sắc lực mạnh khỏe, sao chẳng vì chúng cầu xin thức ăn? Ta đây nhẫn chịu đói còn chưa rảnh, thì đâu rảnh để vì ông mà nói Thiền ư?” Sư không dám trái lời. Sau đó không bao lâu, Thiền sư Chi từ Ðại ngu lại đổi chuyển đến Thúy nham. Sư nhận sớ xong, lại qua Thúy nham cầu chỉ dạy. Thiền sư Chi lại bảo: “Phật pháp chưa đến sáng liền, tuyết đang lạnh nên vì chúng tìm cầu than lửa”. Sư cũng vâng theo lời, công việc hoàn tất, Sư trở vào lại nơi phương trượng. Thiền sư Chi lại bảo: “Ðường tuy khuyết thiếu người, nay vì làm phiền ông”. Sư cũng vâng lời đó nhưng không được vui, Sư hận Thiền sư Chi chẳng dứt trừ tâm địa, bèn ngồi sau giá, bỗng nhiên có thùng sơn tan rơi từ trên giá xuống, và Sư cũng vụt nhiên khai ngộ, chóng thấy điều sử dụng của Thiền sư Chi, liền chạy đắp y Già-lê và vào ngay trên nhà ngủ. Thiền sư Chi nghinh đón Sư, mỉm cười bảo: “Duy-na hãy vui mừng việc lớn đã hoàn tất. Sư lại lễ bái và nói một lời giả từ mà đi. Sư chuyên cần phục vụ ở đó tám năm. Sau đó, ra đời hoằng pháp, Sư ở tại Thúy nham, khi ấy vị Thủ tọa dẫn chúng ra nghinh hỏi rằng: “Với Tông thừa của Ðức Sơn tức không hỏi, còn thế nào là đại dụng của Lâm Tế?” Sư bảo: “Ông ở xứ nào lại?” Thủ tọa phỏng bàn nghị, Sư liền chấp tay, Thủ tọa phỏng nghĩ đối đáp, Sư liền quát bảo: “Dẫn chúng về đi”. Từ đó cả đại chúng đều rất khiếp sợ kính phục Sư. Có vị Tăng hỏi: “Thế nào là đạo?” Sư đáp: “Ði đường chớ lượm vật”. Lại hỏi: “Thế nào là người trong đạo?” Sư đáp: “Giặc cỏ Ðại bại”. Vị Tăng ấy lễ bái, Sư thở dài một hơi. Lại hỏi: “Muôn pháp kết quy về một, một kết quy về đâu?” Sư đáp: “Sông Hồng chín khúc cong”. Lại hỏi: “Thế nào là câu thứ nhất?” Sư đáp: “Duỗi tay quá đều gối”. Lại hỏi: “Thế nào là câu thứ hai?” Sư đáp: “Muôn dặm Nhai châu”. Lại hỏi: “Thế nào là câu thứ ba?” Sư đáp: “Ky phẩn chổi quét”. Lại hỏi: “Thế nào là Phật pháp nơi núi sâu rừng rậm?’ Sư đáp: “Con khỉ đến trên cây”. Lại hỏi: “ Thế nào là việc dưới nạp y?” Sư đáp: “Cốt nằm trong da”. Lại nói: “Chẳng giẫm qua màn rèm, xin Sư nhanh nói”. Sư bảo: “Núi Tu-di”. Lại hỏi: “Thế nào là tịnh pháp thân?” Sư đáp: “Ðàn củi cỏ địch”. Có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Nói chẳng lìa đường hang ổ, sao có thể ra khỏi được sự ngăn che ràng buộc, mảnh mây vắt ngang cửa hang. Mê tức là nguồn của bao nhiêu người. Do đó nói: Lời lẽ không bày sự việc, nói năng chẳng gieo ném cơ căn. Người tiếp nhận lời lẽ tang mất kẻ ngưng trệ nơi câu thì mê mờ. Các người đến trong đó nhờ câu thoại nào mà được hiểu?” Ngừng giây lát, Sư bảo: “Muốn được chẳng rước nghiệp vô gián, chớ nên phỉ báng chánh pháp luân của Ðức Như Lai”. Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Chư Phật thời quá khứ đã diệt độ, chư Phật thời vị lai chưa xuất hiện nơi đời. Do đó, ngay ngày nay, Phật pháp ủy thác ở Thúy nham. Buông đi thì tùy cơ lợi vật, nắm ở thì ngoái sỏi vỡ tan. Hãy nói nắm ở tốt hay buông đi tốt?” Ngừng giây lát, Sư lại bảo: “Ôi! Dã hồ tinh”. Rồi đánh vào thiền sàn một cái và xuống khỏi tòa. Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Các người cùng gì lên đến? Phần nhiều tợ như chích não đưa vào chén keo. Cùng gì xuống đi? Cũng là đất bằng ăn giao. Ngay nhiều chẳng đến chẳng đi, sáng sớm đánh ba ngàn, chiều tối đánh tám trăm”. Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Ðạo xa vời ấy thay! Xúc sự mà thật, Thánh xa vời ấy thay! Hiểu đó thì thần. Do đó, ở thế giới Ta-bà lấy âm làm Phật sự. Ở thế giới hương tích dùng cơm thơm làm Phật sự. Trong Thúy nham ta đây chỉ ra vào hơi thở, cúng dường phụng thờ chưa Phật nhiều như số cát sông Hằng từ thời quá khứ đến hiện tại và cả vị lai không bỏ luống qua một vị nào. Chư Phật như số vi trần ở từ thời quá khứ đến hiện tại và cả thọ lãnh đều là Thúy nham làm Thị giả không một nơi chẳng đến. Nếu có một nơi không đến thì đáng cho ba mươi gậy. Chư vị Thượng tọa có hiểu chăng? Ðem thâm tâm này mà phụng sự trần sát, đó chính là báo đáp ân sâu dày của chư Phật”. Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Gốc của hữu tình nương tựa biển trí lấy làm nguồn. Dòng của Hàm thức, đều lấy pháp thân mà làm thể. Chỉ vì Tình sinh nên Trí ngăn cách, Tưởng biến nên Thể đổi khác. Thấu đạt gốc (Bản) thì Tình mắt, biệt được Tâm thì Thể hợp. Chư vị Thiền đức có hiểu chăng?’ Chư Phật xưa trước cùng với Lộ trụ có sự tương giao. Phật điện và lồng đèn đấu ngạch, như cũng chẳng hiểu đơn kép có giao chiết”. Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Tre cây theo thân gặp Trường làm đùa vui. Tuy là như vậy nhưng mà một tay không thể riêng vỗ. Trong chúng chớ có tác gia bản phận thiền khách. Nạp Tăng ra lại cùng xướng hòa. Có ư?” Khi ấy có vị Tăng bước ra lễ bái. Sư bảo: “Y cứ hiếm có tợ như khúc nhạc mới có thể nhận nghe, lại bị gió thổi riêng điều trong”. Rồi Sư xuống tòa. Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Trời trong lúc sáng sớm muôn sự đều rõ ràng, Bắc-câu-lô châu cơm gạo canh dài”. Và Sư xuống khỏi tòa. Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Nơi có Phật, không được ở, nơi không Phật phải gấp chạy qua. Các người vác ngang cây gậy hành cước đến xứ nào?” Ngừng giây lát, Sư lại bảo: “Ðông thắng thần châu trì bát, Tây-cù-da-ni ăn cơm”. Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Giả sử tâm thông suốt vô lượng thời, trải vô lượng kiếp nào khác gì ngày nay. Hãy nói việc ở ngày nay làm sao sinh?” Ngừng giây lát, Sư lại bảo: “Quạ rùa đục phá vách tường”. Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Thấy nghe hay biết không chướng ngại, sắc, hương, vị, xúc thường Tam-muội. Nạp Tăng đạo hợp vậy, núi là núi, sông là sông, đói thì ăn cơm, mệt nhọc thì nằm ngủ. Bỗng nhiên núi Tu-di nhảy nhót vào trong lỗ mũi các ông, cá Ma-kiệt xuyên vào trong tròng mắt các ông, làm sao sống thương lượng? Ngừng giây lát, Sư bảo: “Tham đường đi”. Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Một con dao hai , chưa xứng với Tông sư. Xuống dưới cao bằng hẳn chưa phải là tác gia. Thúy nham đến trong đó, miệng tợ như gánh dẹp, vậy các người làm sao sống thương lượng?” Ngừng giây lát, Sư lại bảo: “Muốn được không rước nghiệp vô gián, thì chớ nên phỉ báng chánh pháp luân của Ðức Như Lai”. Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Nếu thấy được các tướng là phi tướng, tức núi sông đất liền đều không lỗi quá. Chư vị Thượng tọa, trọn ngày mặc áo ăn cơm, chưa từng ăn dính một hạt gạo, chưa từng treo dính một mảy tơ lụa, bèn có thể biến đất liền thành vàng ròng, khuấy động nước sông làm thành váng sữa. Tuy là như vậy nhưng mặt áo ăn cơm tức chẳng không. Môn hạ của nạp Tăng làm dơ bẩn hơi khí cũng chưa mộng thấy đó”. Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Hạnh Phổ Hiền, Trí Văn Thù, trên núi Phổ-đà gió trong mát thổi, lừa mùa theo đội qua Tân La, cát liêu đầu lưỡi ba ngàn dặm”. Lại có lúc lên giảng đường, Sư nắm chiếc gậy và bảo: “Mang ôm bình bát đến thế giới hương tích, vì gì mà không có đường xuất thân? Khêu nhật nguyệt trên đầu chiếc gậy lên, vì gì mà có mắt vẫn như mù? Ngay được gió thổi cỏ rạp, tiếng hòa âm thuận, không mảy may có thể giữ lại, còn là giao tranh đến pháp. Làm sao sống là không giao tranh đến pháp?” rồi Sư gõ chiếc gậy một cái và xuống khỏi tòa. Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Lâm tế trước bén nhọn phóng qua một trữ, Ðức Sơn sau khiến tạm ở một bên, riêng bày vô tư một câu làm sao sống? Nói”. Ngừng giây lát, Sư bảo: “Kham thán, chuông dưới sở lìa mùi vị!” Rồi Sư nắm phất trần đánh vào thiền sàn một cái và xuống khỏi tòa. Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Trong giáo điển nói: “Các thứ thủ xả đều là luân hồi, chưa ra khỏi luân hồi mà bàn biện viên giác thì tánh viên giác ấy tức đồng lưu chuyển, nếu thoát khỏi luân hồi, hẳn không có như thế. Các người đến trong đó hãy làm sao sống để biện bàn viên giác?” Ngừng giây lát, Sư bảo: “Lá sen tròn tròn tròn tợ kiếng, sừng ấu nhọn nhọn nhọn như dùi”. Rồi, Sư nắm phất trần đánh xuống thiền sàn một cái. Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Người xưa nói: Núi sông vách đá chẳng ngăn ngại ánh sáng của mắt”. Và Sư bảo: “Làm sao sống là mắt?” Xong, Sư nắm chiếc gậy đánh vào vào thiền sàn một cái, tiếp bảo: “Núi Tu-di trăm thứ tạp toái tức không hỏi. Còn các ông hãy nói vua rồng Ta-kiệt-la tuổi ít nhiều?” Có vị Sĩ tục hỏi: “Thế nào là Phật?” Sư đáp: “Mặc áo ăn cơm lường việc nhà”. Lại hỏi: “Thế nào thì lùi thân ba bước, chấp tay ngang ngực đi?” Sư đáp: “Sau khi tỉnh say thêm một cốc chẳng như không”. Có lúc tiểu tham, nêu cử Bách Trượng đêm cuối năm dạy răn đại chúng rằng: “Các ông là một đội hậu sinh, kinh luật luận hẳn là không biết, vào chúng tham thiền, thiền lại không hiểu. Ngày ba mươi tháng chạp hãy làm sao sống chiết hợp đi?” Sư bảo: “Ðốt đèn các Thiền đức, cách Thánh thời gian lâu xa, tâm người dợt dạt. Xem ngay các tùng lâm ngày nay càng là chẳng có nơi được. Hoặc nhóm tụ đồ chúng ba trăm, năm trăm vị đông nhiều đầy đất, chỉ vì cơm ăn no đủ, phòng nhà yên ẩn, bèn cho là vượng hóa. Trong đó chăm chăm làm Ðạo thì không có một người, giả sử như có mười vị, năm vị chạy trên chạy dưới, nửa xanh nửa vàng. Hiểu tức tất cả nói ta hiểu. Mỗi mỗi tự cho là nắm được châu ngọc của rắn linh, ai chịu biết là mình trái, đến lúc bị bức ép đánh đòn đem lại, ngay lúc ấy trong muôn vàng chẳng có một. Khổ thay! Khổ thay! Do đó nói Tùng lâm Bát-nhã mỗi năm một điêu tàn, cỏ hoang vô minh mỗi năm một tươi tốt. Tóm lại, ngày nay các hậu sinh mới vào trong chúng tiện tự ngồi yên khoanh tay, nhận sự cúng dường của người khác. Ðến như, rau chẳng nhặt cọng, củi không bửa một bó, mười ngón tay chẳng dính đến nước, trăm việc chẳng liên can đến nỗi lòng. Tuy là một thời gian an vui thỏa ý, nhưng tránh sao khỏi lụy thân trong ba đường xấu ác. Há chẳng thấy nói trong kinh giáo là thà dùng sắt nóng buộc thân chứ không nhận áo mặc của người tín tâm. Thà đem nước đồng sôi rưới vào miệng chứ không ăn vật phẩm của người tín tâm. Các vị Thượng tọa nếu được như vậy thì biến đổi đất liền làm thành vàng rồng, khuấy động nước sông làm thành váng sữa, cúng dường Thượng tọa chưa là việc ngoài bổn phận. Nếu chưa như vậy thì đến như giọt nước tấc tơ, cũng phải mang lông đội sừng mang cày kéo bừa để đền tả lại mới được! Không thấy Tổ sư nói: “Vào Ðạo không thông lý, mang thân đến tín thí”. Ðó là việc quyết định cuối cùng trọn không hư dối vậy! Cùng các vị Thượng tọa, tấc bóng rất đáng quý tiếc, thời gian chẳng đợi chờ người. Chớ đợi một mai mắt sáng rơi giữa đất. Ruộng phước không một chút công, thành sắt thống khổ vây hãm trăm thứ tội hình! Chớ bảo là tôi không nơi. Trân trọng!”

Contact Information

Phone
Array
Address Array
This entry was posted in . Bookmark the permalink.